LỊCH SỬ XÃ NGHI HƯNG TÁI BẢN NĂM 2024

Thứ tư - 31/07/2024 03:22
LỊCH SỬ XÃ NGHI HƯNG TÁI BẢN NĂM 2024
                                                                             
LỜI NÓI ĐẦU
    Thực hiện Chỉ thị số 20 -CT/TW ngày 18 .01 . 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX), Hướng dẫn số 102 - HD/BTGTW, ngày 30/9/2019 của Ban Tuyên giáo Trung ương về “Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng  nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”; Kế hoạch số160 KH/TU ngày 14. 11. 2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An về thực hiện Chỉ thị 20 CT/TW, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nghi Hưng tổ chức biên soạn cuốn "Lịch sử xã Nghi Hưng".
  Biên soạn “Lịch sử xã Nghi Hưng” cũng là nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm ghi lại những đóng góp to lớn của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để động viên, cổ vũ nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, củng cố và xây dựng tình yêu quê hương, đất nước, tích cực tham gia thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trong truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc, nhân dân Nghi Hưng đã trải qua những năm dài gian lao, vất vả đấu tranh với thiên nhiên, giặc ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng cuộc sống. Đặc biệt là khi cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, bền bỉ, vô cùng gian khổ nhưng cũng rất oanh liệt, vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã có nhiều đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những chiến công, những sự kiện qua hàng ngàn ngày kháng chiến, xây dựng vẫn ghi đậm, khắc sâu trong tâm trí của các thế hệ mỗi người con quê hương.
Để cuốn “Lịch sử xã Nghi Hưng” đến được với bạn đọc, bộ phận biên soạn đã dày công điều tra, khai thác tư liệu, nghiên cứu, biên soạn và đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm của các cụ cao niên, cán bộ chủ trì qua các thời kỳ, của các ban, ngành cấp xã, huyện, tỉnh và nhân dân trong xã. Cuốn sách có tham khảo, sử dụng một số tư liệu bản viết tay của của đồng chí Bùi Văn Kinh, Trần Hữu Bút (viết năm 1993.) Đây là cuốn sách tái bản sửa chữa, bổ sung cuốn Lịch sử xã Nghi Hưng xuất bản năm 2013. Mặc dù bộ phận biên soạn đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những hạn chế do ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan. Việc tái hiện lịch sử kéo dài hàng trăm năm với biết bao sự kiện trong điều kiện thiếu nguồn tài liệu, nhất là tài liệu thành văn không đầy đủ là một việc làm có nhiều khó khăn. Do đó, cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để sửa chữa, bổ sung, nâng cao hơn nữa chất lượng cuốn sách khi có điều kiện tái bản.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nghi Hưng xin chân thành cảm ơn các đồng chí đã quan tâm giúp đỡ chúng tôi biên soạn và xuất bản cuốn “Lịch sử xã Nghi Hưng”.
   BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ NGHI HƯNG
                                                                                            
 
Tiểu dẫn
 Nghi Hưng trong dòng chảy của lịch sử
     Trong sự tạo hoá của thiên nhiên có muôn điều kì vĩ, mỗi vùng đất có cái kì thú riêng, cái âm khí linh thiêng của núi sông tụ hội. Nghi Hưng ngày nay, vùng đất hạ lưu tả ngạn sông Cấm, mỗi khi hoàng hôn đổ về một vùng trời nước mênh mang huyền ảo nhập nhoà một màu sương tím. Từ ngàn xưa, nơi đây luôn là “Địa linh nhân kiệt” một vùng đất hẹp mà có nhiều nhà túc nho, khoa bảng và nhiều công trình kiến trúc cổ văn hoá. Đất linh thiêng sinh ra người kiệt hiệt để trường tồn trong lòng nhân dân.
    Nằm trong địa bàn của tổng Vân Trình trải dài theo vòng cung dãy núi Đại Vạc và theo dòng chảy tả ngạn của sông Cấm. Đại Vạc là một dãy núi lớn thuộc phủ Anh Đô cũ có  hai ngọn núi cao: ngọn phía đông gọi là động Tây Xây (cao 481m), ngọn phía tây là Thần Vũ (cao 491m). Đây cũng là vùng núi rừng hiểm trở, có con đường ven núi đi đến huyện Nam Đàn, Diễn Châu và các xã trong huyện Nghi Lộc nên đây là địa bàn hoạt động của thủ lĩnh nghĩa quân từ thời An Dương Vương, Lý Phật Tử đến thủ lĩnh nông dân Nguyễn Hữu Cầu, của các thân vương… Con đường từ ngoài Bắc đi vào qua truông Sắt, men theo chân núi tiến về sông Cấm, ra đường Thiên Lý (Quốc lộ 1 A) là con đường hành quân quen thuộc của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu (di tích còn sót lại ở Cửa Lũy - Nghi Đồng). Là vùng đất phên dậu và có các ngôi đền, chùa nên chăng có sự âm hưởng, độ trì nào đó mà dân cư quy tụ  lập ấp xây nên một vùng dân cư có “Mạnh khí cương cường”. Cái khí chất ấy trên dặm đường dài thăng trầm bể dâu của lịch sử, nhân dân đã luôn vật lộn với thiên nhiên, địch hoạ để bảo vệ sự tồn tại và phát triển của mình.
    Thiên tai làm cho con người cố kết cùng nhau vượt qua bão tố đói nghèo. Địch hoạ càng đào luyện con người dũng cảm, kiên cường, bất khuất, bền vững, thủy chung son sắt, mạnh mẽ  sáng tạo. Trải qua các thời kì lịch sử, đất sơn thanh thủy tú đã tái tạo sinh thành nên nhiều văn quan, võ tướng làm rạng danh cho quê hương đất nước                                                            
     Chất liệu ấy - Nghi Hưng đã làm nên những nổi dậy gây tiếng vang vọng mãi đến bây giờ”. Các sự kiện trên vùng đất Nghi Hưng là dấu ấn lịch sử, chứng kiến và ghi nhận sự kiện cách mạng sôi động do Đảng lãnh đạo, mở đầu cho thời kì cách mạng mới của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, để lại những vật chứng vừa hào hùng khắc sâu vào tiềm thức mọi người dân quê hương.
    Trong dòng chảy của lịch sử, tiếp nối các phong trào cách mạng, nhân dân Nghi Hưng đã hưởng ứng các phong trào cách mạng do Đảng phát động, ghi nhận nơi đây là nơi hội họp, tập trung sinh hoạt của các đoàn thể quần chúng để làm nên một Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân.
     Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Nghi Hưng đã phát huy tốt truyền thống cách mạng, yêu nước, lao động sáng tạo để huy động nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc giành thắng lợi. Đó là sự khắc ghi mãi mãi công lao đóng góp to lớn của cán bộ, đảng viên, nhân dân Nghi Hưng trong những năm tháng đấu tranh oanh liệt của dân tộc để bảo vệ nền độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
     Với nhận thức truyền thống lịch sử là một bộ phận văn hoá không thể thiếu đối với một dân tộc, nó không chỉ khát vọng, mục tiêu cuả con người, mà bản thân nó là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, sự hoàn thiện nhân cách trong xã hội văn minh. Đạo lí truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam là: Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Chúng ta biết ơn những lớp người đi trước đã để lại cho chúng ta những giá trị lịch sử văn hoá để làm cầu nối hướng tới tương lai.
    Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước của Đảng, hướng tới xây dựng một xã hội phồn vinh, đang thu được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Nhưng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới đang đặt cho chúng ta những thách thức lớn. Vì vậy, bằng việc kế thừa, phát huy, giáo dục truyền thống, khơi dậy niềm tự hào, tình yêu quê hương, đất nước không chỉ là văn hoá mà là một yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội. Thông qua sự hưởng thụ văn hoá để sáng tạo nên những giá trị mới thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
        Trong mạch nguồn lịch sử dân tộc, Nghi Hưng luôn là vùng đất “Nhân sơn quy tụ”- “Nhân kiệt địa linh”, có một truyền thống yêu nước và cách mạng đã góp phần làm nên vinh quang của dân tộc.
     Ngày nay, Nghi Hưng đang tiếp tục phát huy bản chất truyền thống hiếu học, cách mạng, vươn lên khắc phục khó khăn, ổn định tình hình an ninh chính trị, thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội xây dựng Nghi Hưng xứng với vùng đất văn hiến.
 Lịch sử Nghi Hưng cứ kết nối mãi đến bây giờ và cùng với hành trang đang bước tiếp cùng dân tộc xây dựng xã hội văn minh, hiện đại.
CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
  1. ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH
Nghi Hưng ngày nay là một trong 30 xã, thị trấn của huyện Nghi Lộc, cách huyện lị, thị trấn Quán Hành khoảng 7 km về phía bắc. Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nghi Hưng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của huyện Nghi Lộc và Hưng Nguyên. Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của mình, cùng với những biến động của lịch sử dân tộc, vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi về địa giới hành chính với những tên gọi khác nhau.
Cuối thế kỉ XV, chính quyền phong kiến Việt Nam phát triển đến trình độ cực thịnh. Với mong muốn xây dựng một nhà nước Trung ương tập quyền, Lê Thánh Tông đã đặt ra cấp tổng để thuận lợi cho việc quản lí. Lúc này, các làng thuộc xã Nghi Hưng ngày nay bao gồm: Tam Đa, Yên Lãng và Hưng Vận thuộc tổng Vân Trình huyện Hưng Nguyên. Đến đời vua Thành Thái, năm 1889, địa giới huyện Nghi Lộc có sự điều chỉnh: tổng Yên Trường được cắt sang huyện Hưng Nguyên; còn tổng Vân Trình, tổng La Vân thuộc Hưng Nguyên được chuyển về huyện Nghi Lộc (năm 1894, Thành Thái đổi tên huyện Chân Lộc thành huyện Nghi Lộc). Thời gian này, Nghi Lộc có 5 tổng với 79 đơn vị hành chính gồm: tổng Vân Trình, tổng La Vân, tổng Thượng Xá, tổng Đặng Xá, tổng Kim Nguyên. Tổng Vân Trình có 16 đơn vị gồm: Tam Đa, Yên Lãng (Nghi Hưng), Phương Tích, Mỹ Yên, Hà Thanh, Tụy Anh (Nghi Phương), Xuân Mỹ, Vân Trình (Nghi Đồng), Mỹ Hòa, Phù Thạch, Tràng Đề (Nghi Mỹ), Mậu Lâm, Mỹ Lâm (Nghi Lâm), Cổ Văn, Cổ Lãm, Đồng Quỹ (Nghi Văn). Các đơn vị hành chính không thống nhất về tên gọi, nơi gọi làng, nơi gọi thôn. Quy mô các đơn vị cũng khác nhau, không lấy diện tích đất đai, dân số mà lấy nhân đinh (nam giới) từ 18 tuổi trở lên làm căn cứ. Nghi Hưng lúc này gồm 3 làng: Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận thuộc tổng Vân Trình. Như vậy, đến đời Thành Thái, Nghi Hưng gồm các làng: Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận chính thức sáp nhập về huyện Nghi Lộc.
Về địa lí, tổng Vân Trình trải dài theo vòng cung dãy núi Đại Vạc và theo dòng chảy tả ngạn của sông Cấm. Đại Vạc là một dãy núi lớn thuộc phủ Anh Đô cũ có hai ngọn núi cao: ngọn phía đông gọi là động Tây Xây (cao 481m), ngọn phía tây là Thần Vũ (cao 491m).
Theo các bản khẩn hoang đời Hồng Đức (1459 - 1497), trước đây, vùng đất dưới chân dãy núi Đại Vạc gọi là ngàn Đại Vạc còn hoang vu, chưa có cư dân sinh sống, khai khẩn: “Lâm lộc quang dạ, hàm thủy lưu thông” (núi rừng san sát, nước mặn tràn đầy). Trải qua những biến động của thiên nhiên, nhiều rừng cây bị vùi lấp sâu dưới các bãi hói, đầm lầy mà ngày nay còn tìm thấy qua những mảng than đen khi nhân dân đào giếng lấy nước, đào móng làm nhà. Đây cũng là vùng nhiều khe suối cao thấp, nông sâu khác nhau, là địa bàn sinh sống của những người dân nghèo đói, quanh năm sống bằng nghề đốt than, chặt củi…(ở vùng khe Xiêm, Vực, Nghè Cạn, Trảy, Su, Trịnh…)
Vùng đất của tổng Vân Trình còn chịu ảnh hưởng của sông Cấm. Một mặt, sông Cấm đem chất phù sa trong quá trình rửa trôi, xói mòn do mưa lũ từ thượng nguồn dãy Đại Huệ về bồi đắp vùng đất trũng thấp ven chân Đại Vạc. Mặt khác, do sông thông ra biển nên nước mặn theo thủy triều dâng lên tạo ra những bãi hói nước lợ, bị bồi lấp lâu ngày để lại những lớp đất đen, lầy, mặn với những tên gọi như: hói Đò, hói Nến, hói Dứa, hói Rươi... Do địa bàn có nhiều đầm, hói lầy và rừng rậm nên các loại côn trùng sinh trưởng khá mạnh. Đặc biệt là muỗi vằn gây bệnh sốt rét. Vì thế, nhân dân ở đây có câu ca lưu truyền: “Đỉa truông Sắt, muỗi mắt truông Riềng” hay “tháng chín quýt đỏ trôn, khe Trêu, khe Trịnh bỏ con không bồng”. Câu ca này phản ánh thực tế là: hàng năm, đến tháng 9, khi quýt chín đỏ trôn cũng lúc là dân làng Trịnh Đông hầu hết bị sốt rét không bồng bế được con. Đây cũng là vùng núi rừng hiểm trở, có nhiều truông, nhiều đèo như: truông Sắt, truông Riềng, truông Dạo. Do có con đường ven núi đi đến huyện Nam Đàn, Diễn Châu và các xã trong huyện Nghi Lộc nên đây là địa bàn hoạt động của các thân vương, thủ lĩnh nghĩa quân từ thời An Dương Vương, Lý Phật Tử đến thủ lĩnh nông dân Nguyễn Hữu Cầu... Con đường từ ngoài Bắc đi vào qua truông Sắt, men theo chân núi tiến về sông Cấm, ra đường Thiên Lý (Quốc lộ 1 A) là con đường hành quân quen thuộc của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu (di tích còn sót lại ở Cửa Lũy - Nghi Đồng).
Tổng Vân Trình chia làm 2 vùng: Vân Trình Thượng và Vân Trình Hạ. Vân Trình Hạ gồm 2 xã lớn: xã Quả Trình và xã Quả Khê. Theo văn bản khẩn hoang đời Hồng Đức và các giấy tờ mua bán, tranh chấp ruộng đất của các hào lí: từ thời Gia Long trở về trước, vùng đất thuộc xã Quả Khê còn gọi là Ngôi Khê sau đổi là Cảo Khê. Đến đời Minh Mệnh được đổi thành Quả Khê. Ban đầu toàn xã có chung một triện bạ. Đến đời Minh Mệnh thì mỗi làng có một triện bạ có lí trưởng đứng đầu. Xã Quả Khê là vùng bán sơn địa thuộc tả ngạn sông Cấm nằm dưới chân dãy núi Thần Vũ. Đây là vùng đất có nhiều ngọn núi biệt lập, thấp như: núi Dứa và nhiều khe, suối, đồng ruộng bậc thang có độ dốc lớn. Yên Lãng cũ là vùng trũng, có sông Cấm chảy qua, dòng nước chảy chậm nên thường gây úng lụt vào mùa mưa. Thời gian khoảng tháng 8 âm lịch hàng năm, sông Cấm đem theo nước mặn vào đồng ruộng mỗi khi có thủy triều dâng cao. Vùng đất này được xem là cái bồn đựng nước của xã Nghi Hưng: vào mùa mưa lụt, nước dâng cao, gây ngập úng đồng ruộng và nhà cửa, nhân dân làng Yên Lãng phải đi sơ tán vào những vùng đất cao hơn.
Đất đai ở đây có độ sét cao, chất mùn hữu cơ ít do bị xói mòn vào mùa mưa lũ. Toàn xã không có hồ lớn chứa nước tự nhiên, chỉ có những chỗ tràn, đập nước có cống và tràn nhỏ để tiêu úng, cho nên vào mùa mưa thường gây ngập úng diện rộng, mùa khô thì thiếu nước cục bộ gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào các giấy tờ xin khẩn hoang của các nhóm người ngoài Bắc di cư vào thời Lê, niên hiệu Hồng Đức (1459 - 1497) các cánh đồng hiện có như: đồng Vần, đồng Truông, đồng Hoang, đồng Nông (Nghi Hưng), đồng Tháp, Cự Đô (Nghi Phương) thì xã Quả Khê được hình thành từ năm Hồng Đức thứ 22 đời Lê Thánh Tông (1491) gồm có 3 thôn: Tam Đa, Yên Lãng và Hưng Vận. Thôn Tam Đa được xây dựng trên cơ sở 3 trại cày là: trại Gộp (còn có tên là Đôn Hậu); trại Nóng (còn có tên là Nông Đồng) đều ở giữa đồng, trại Thạch Khê ở núi Khê. Qua các giấy tờ để lại thì đời Lê Chính Hòa (1680- 1705), ba trại cày đã hình thành ba thôn, có vị trí hành chính ngang với các thôn khác trong xã Quả Khê. Khoảng cuối thời Lê đầu thời Nguyễn (1802), ba thôn trên hợp lại thành một thôn lớn gọi là thôn Tam Giáp. Đến đời Minh Mệnh, triều đình tu soạn địa bạ thì vẫn còn gọi là Tam Giáp, về sau mới đổi thành Tam Đa.
Lúc đầu, thôn Tam Đa có ba giáp: Đôn Hậu, Nông Đồng, Thạch Khê. Sau này, Nông Đồng lại chia ra giáp Đông, giáp Tây. Do vậy, Tam Đa có 4 giáp: Đôn Hậu, Thạch Khê, giáp Đông, giáp Tây. Giáp Thạch Khê có 3 xóm: xóm Bàu ở chân phía nam rú Chờ, xóm Giữa ở chân phía bắc rú Khê, một bộ phận xen lẫn với giáp Tây. Giáp Đôn Hậu ở xóm cồn Tang. Giáp Đông, giáp Tây ở xen kẽ nhau từ đồng Nóng lên cồn Re. Tam Đa là thôn đông dân nhất xã Quả Khê, đồng ruộng bao quanh thôn tương đối bằng phẳng, thấp dần ra bờ sông Cấm. Mùa mưa, lụt hàng năm thường bị ngập úng, nước dâng cao, nhân dân phải sơ tán đến vùng núi Khê. Mùa nắng thì hạn hán, thiếu nước sinh hoạt. Dân cư sinh sống ven sông Cấm không có mạch nước ngầm, không có giếng nước ngọt phải đến chân núi giáp Thạch Khê lấy nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Làng Yên Lãng được hình thành trên một bãi hoang trũng lầy, còn gọi là trại Lầy, có bàu nước chảy quanh năm không cạn gọi là Tuyền Thủy. Tên gọi đầu tiên của thôn là Yên Tuyền (chữ Tuyền do chữ Tuyền Thủy mà đặt). Đến đời Lê đổi tên thôn là Yên Lãng, gồm có 3 xóm: xóm Yên Trạch (xóm Đình) là xóm chính, xóm Yên Lạc (rú Và) và xóm Yên Hậu (xóm Chữ). Đây là vùng đất thấp trũng nhất của xã nên vào mùa mưa lụt, nước ngập đến mái nhà, nhân dân phải sơ tán lên những vùng núi cao hơn. Ngoài ra còn có xóm Thái Yên ở dưới chân núi phía tây bắc do dân cư Yên Lãng, Hưng Vận đến định cư.
Hưng Vận xưa kia chỉ là một giáp (xóm) của thôn Phương Tích (nay thuộc xã Nghi Phương), chung một triện bạ với Phương Tích (ở Phương Tích có lí trưởng quản lí chung Phương Tích và Hưng Vận). Ở Hưng Vận chỉ có chức hương kiểm giúp việc cho lí trưởng. Trong thôn Hưng Vận cũng có người vùng Phương Tích di cư xuống để cày cấy khai khẩn ở đồng Vần, đồng Truông.
Theo bản khai về đất đai xã Cảo Trình năm Lê Chính Hòa thứ 15 đã thấy có tên giáp Hưng Vận. Đến cuối đời Hậu Lê, giáp Hưng Vận mới có địa vị ngang hàng với các thôn khác trong xã. Năm Cảnh Hưng thứ 15 (1755), xã Quả Khê khi cắt triện bạ chia đất đai đã giao cho giáp Hưng Vận quản lí 3 ngôi đền, 1 ngôi chùa và thu thuế 52 mẫu đất ở cánh đồng Màng Tang, đồng Vược, đồng Sành. Tuy nhiên, cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hưng Vận vẫn chưa được tách khỏi Phương Tích để lập thôn riêng biệt có triện bạ, mặc dù các chức sắc trong thôn đã nhiều lần đệ đơn xin cấp trên biệt triện. Thôn Hưng Vận ban đầu gọi là trại Dứa, nằm dưới chân rú Dứa. Khởi nguyên đây là vùng đất hoang vu nằm trên bờ sông Cấm, có hói nhiễm mặn hoang vu đầy cây dứa dại, bần, cói, lác, cỏ tranh. Khi mới chiêu dân lập ấp, đây là trại của nhân dân Phương Tích, Tam Đa, Yên Lãng ở tả ngạn sông Cấm và những cư dân hữu ngạn sông Cấm như: Xuân Áng (Nghi Quang), Kè Đò (Nghi Thuận).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều tên gọi hành chính từ cấp trung ương đến địa phương có sự thay đổi, cấp tổng lúc này bị bãi bỏ. Tháng 5 năm 1946, thực hiện Sắc lệnh của Chính phủ và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, Huyện ủy Nghi Lộc đã lãnh đạo việc tổ chức sắp xếp lại các đơn vị hành chính cho thống nhất. Nghi Lộc từ 79 đơn vị hành chính sáp nhập lại thành 24 đơn vị. Các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Mỹ nhập thành xã Thần Sơn (lấy bí danh của nhà chí sĩ yêu nước Ngô Quảng người thôn Tam Đa).
Tháng 4 năm 1947, Mặt trận Bình Trị Thiên bị vỡ, vùng Nghệ - Tĩnh bị thực dân Pháp uy hiếp. Trước  yêu cầu, nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An đã lãnh đạo việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cho phù hợp với tình hình tác chiến đánh địch. Xã Thần Sơn gồm các thôn: Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Mỹ và xã Vạn Hòa gồm các thôn: Phương Tích, Hà Thanh, Mỹ Yên, Tụy Anh lập thành xã Thần Lĩnh.
Tháng 9 năm 1953, thực hiện chủ trương của Trung ương, cuộc “phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô” được mở rộng trên phạm vi toàn tỉnh. Nghi Lộc có 5 xã gồm: Tam Thái, Thần Lĩnh, Thuận Hòa, Xuân Hải, Ngư Hải tiến hành trong đợt II bắt đầu từ tháng 9 năm 1953. Thực hiện Thông tri của Phủ Thủ tướng ngày 4.1.1954 về chia xã trong phát động giảm tô, các đơn vị hành chính xã, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể được củng cố kiện toàn sắp xếp lại. Huyện Nghi Lộc từ 13 xã được chia thành 38 xã mới. Xã Thần Lĩnh chia thành 2 xã gồm: Nghi Hưng và Nghi Phương. Tên xã Nghi Hưng ra đời từ đó gồm các thôn: Hưng Vận, Yên Lãng, Yên Trạch, Yên Hậu, Tam Đa, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Hòa, Xuân Mỹ, Xuân Sơn, Xuân La.
Đầu năm 1956, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Huyện ủy Nghi Lộc, xã Nghi Đồng được thành lập trên cơ sở các thôn Thạch Khê, Xóm Bàu, Nhất Tộc, Xuân  Hòa, Xuân Mỹ, Yên Lạc, Xuân La được tách ra từ xã Nghi Hưng. Xã Nghi Hưng còn lại các thôn: Tam Đa, Yên Hậu, Yên Trạch, Hưng Vận, Xuân Sơn, Yên Lãng.
Đến năm 1964, thực hiện chủ trương của huyện mở rộng diện tích đất sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và quy hoạch dân cư, xã quyết định chuyển các gia đình của Hợp tác xã Trung Hưng (xóm Yên Trạch cũ) thường bị ngập lụt lên ở xứ Khâm Đồng để trách lụt lội hàng năm và lập Hợp tác xã Tây Hưng; chuyển một số gia đình ở Đông Hưng, Nam Hưng (làng Tam Đa) lên ở xứ đồng Bà Thiếu và thành lập Hợp tác xã Tam Sơn. Vào cuối năm 1969 đầu năm 1970, Nghi Hưng tiến hành xây dựng hợp tác xã quy mô bậc cao, một bộ phận dân cư các làng: Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận được di chuyển lên vùng chân núi Đại Vạc, lập các thôn mới. Cả làng Yên Lãng chuyển lên vùng rú Mây và hình thành xóm 1 và 2 thuộc Nghi Đồng, xóm 4 và 5 của Nghi Hưng. Làng Tam Đa chuyển một phần dân cư lên vùng đồng Cương (xóm 6), trại Khế (xóm 7 và 8), rú Dẻ (xóm 9), khe Cù ( xóm 10, 11, 12). Hưng Vận tách một phần nhập với Thái Yên có các xóm 13, 14, 15 . Xã Nghi Hưng ngày nay gồm 3/4 địa phận xã Quả Khê. Ngày xưa gồm các thôn Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận và xóm Xuân Sơn. Riêng thôn Tam Đa cũ giáp Thạch Khê và thôn Yên Lãng có xóm Yên Lạc cắt về xã Nghi Đồng. Địa giới hành chính phía đông giáp sông Cấm, Nghi Thuận, phía tây giáp xã Nghi Đồng, phía nam giáp xã Nghi Phương, phía đông bắc giáp Nghi Yên, phía bắc là dãy Đại Vạc, bên kia núi là xã Diễn Phú (huyện Diễn Châu).
Dân số Nghi Hưng đến tháng 6 năm 2024 có 5.966 người, với 1.639 hộ gia đình được phân bố sinh sống tại 6  xóm theo đơn vị hành chính từ xóm 1 đến xóm 6.
 Các công trình trụ sở Đảng ủy, Hội đồng nhân dân,  Công an, Uỷ ban nhân dân, nhà văn hóa xã, trạm y tế  được xây dựng trên vùng đất trung tâm xã thuộc xóm 5 (Thái Yên),  trường tiểu học, trường trung học, mầm non, đài tưởng niệm ở xóm 4 (Chại Khế).
  1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Xã Nghi Hưng nằm trong vòng cung của dãy Đại Vạc chạy từ Đông Bắc đến Tây và Đông Nam (ngọn núi cao nhất là Thần Vũ: 491 mét). Cũng như nhiều xã miền núi phía tây của huyện Nghi Lộc, địa hình Nghi Hưng ngày nay ít có sự biến đổi so với quá trình hình thành từ xa xưa, với độ dốc khá lớn. Tuy nhiên, do phía đông xã có dòng sông Cấm chạy qua, làm cho địa hình có những điểm khác biệt so với các xã khác của huyện Nghi Lộc. Địa hình Nghi Hưng được chia thành hai vùng rõ rệt.
Vùng đất cao bao gồm vùng đồi núi xen với thung lũng là những đồng bằng nhỏ hẹp bị chia cắt, có độ dốc lớn: 35 đến 400 tạo nên địa hình ruộng bậc thang, độ xói mòn lớn. Về mùa mưa bão, nước ở các sườn ngàn Đại Vạc đổ xuống kéo theo hiện tượng rửa trôi. Xen lẫn giữa các khu dân cư là những đồi núi thấp, ở giữa là các khe suối tạo nên những vùng đất bồi rộng và tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nghề trồng lúa. Từ xa xưa, vùng đất này chủ yếu là núi non và các khe suối; sau những biến động dữ dội trong lòng đất đã hình thành nên những bãi bồi rộng lớn xen lẫn những hồ đầm, bàu, lạch nước hoang sơ. Thổ nhưỡng ở đây không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: chủ yếu là đất pha sét bạc màu, kém dinh dưỡng, pha tạp nhiều chất đá và sạn ong, ít mùn, độ phèn cao nên năng suất các loại cây trồng thấp. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử cùng với việc lập làng, lập ấp, khai phá đất đai, dưới bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của các thế hệ người dân nơi đây, đất đai được cải tạo, bồi đắp, khai phá nên dần thích hợp được với một số loại cây trồng như lúa nước, ngô, khoai, sắn...
Vùng đất thấp trũng nằm ở phía đông xã nơi tiếp giáp với dòng sông Cấm. Sông Cấm là dòng sông nhỏ có tốc độ dòng chảy chậm (trung bình 0.9 m3/giây mùa khô và 2,5 m3/giây vào mùa mưa) khi nước chảy ra biển thường bị thủy triều ngăn cản, làm nước sông rút chậm, gây nên hiện tượng úng lụt dài ngày cho những vùng đất thấp trũng ven sông. Những khi thủy triều cường, sông đem theo nước mặn vào đồng ruộng làm cho vùng đất thuộc hạ lưu sông bị nhiễm mặn. Những năm mưa lụt nhiều, vùng đất ven sông Cấm nhiễm mặn liên tục khiến cho nhân dân không thể sản xuất. Năm 1900, nhân dân các giáp, làng đắp con đập ven sông Cấm từ chân núi  Riềng đến làng Phương Tích nhằm ngăn mặn, giữ ngọt mở rộng đất sản xuất.
Với những đặc điểm địa hình như vậy, trải qua nhiều thế hệ, người dân Nghi Hưng một mặt tìm cách khắc phục các điều kiện tự nhiên, cải tạo đồng ruộng, chống xói mòn, giữ chất màu cho đất, ngăn ngừa nhiễm mặn và có nhiều biện pháp để tiêu úng, chống hạn; một mặt tích cực đưa các giống cây trồng, vật nuôi thích hợp với thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên để nâng cao hiệu quả sản xuất, chăn nuôi, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nghi Hưng có nhiều sông suối nhỏ, đầm, bàu đập. Ngoài dòng sông Cấm, còn có sông Su chảy từ Nghi Đồng qua làng Tam Đa đổ ra sông Cấm. Có các khe lớn như: khe Xiêm ở xóm 2 ( Khăm Đồng, Đồn Cương); khe Lau ở xóm 3 ( Rú Dẻ), khe Sanh ở xóm 3 (Chại Khế), khe Cù ở xóm 4, khe Vực ở xóm 5, khe Trảy ở xóm 6 ( Bắc Hưng), khe Ngang ở xóm 3 (Chại Khế). Có các đập, đầm: đập khe Lau ở xóm 3 ( Rú Dẻ), khe Dơi xóm 6 ( Bắc Hưng), khe Xiêm ở xóm 2( Đồng Cương); hói Dứa ở xóm 6 ( Hưng Vận), hói Lở, hói Chợ, hói Đá ở xóm 1(Tam Đa). Với trữ lượng nước của hệ thống sông suối, bàu đập tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khai thác nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cung cấp một phần thực phẩm cho đời sống, đồng thời tạo ra một lượng hơi nước có tác dụng điều hòa không khí, làm dịu mát về mùa nóng. Cùng với quá trình phát triển, hệ thống bàu đập và sông suối ở đây được cải tạo, xây dựng có giá trị phục vụ cho sản xuất, đời sống của nhân dân.
Nghi Hưng nằm trong vòng cung của dãy Đại Vạc, ngoài ngọn núi cao Thần Vũ, Tây Xây, xen giữa các khu dân cư là các núi thấp, nhỏ hơn gắn liền với đời sống của cư dân nơi đây như: rú Thần, rú Dứa, rú Khoán, rú Sỏi, rú Hái, rú Khe Nghè. Các núi này có tác dụng vừa giúp con người tránh bão lụt và trồng cây đảm bảo môi trường, khí hậu.
Khí hậu: Nghi Hưng nằm trong phông chung của khí hậu Nghệ An - miền Trung, thuộc khu vực nhiệt đới có gió mùa Đông Bắc với đặc trưng lạnh về mùa Đông, gió Tây Nam vừa nóng vừa khô (thường gọi là gió Lào) thổi mạnh từ tháng 5 đến tháng 8, xen giữa gió Lào là gió Đông Nam mang hơi nước từ biển vào (thường gọi là gió nồm). Mặt khác, đặc trưng khí hậu trên với sự phân mùa tương đối rõ nét: Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng khái quát lại, khí hậu gồm hai mùa nóng và lạnh. Mùa lạnh thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, có gió mùa Đông Bắc tràn về mang theo giá buốt, trời nhiều   mây buổi sáng thường có sương mù dày đặc, bao phủ sát mặt đất và các vùng núi cao, hiện tượng sương muối cũng thường xuyên xuất hiện, nhiệt độ xuống thấp trong tháng 11 và tháng Giêng, có năm xuống dưới 10 độ C, lượng mưa ít, thường xảy ra hạn hán gây khó khăn cho sản xuất, đặc biệt là nghề chăn nuôi và trồng trọt.
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm, nhiệt độ tăng cao vào tháng 7, có khi lên tới 40 độ C, xuất hiện những đợt khô nóng kéo dài. Đây cũng là mùa thường có mưa, bão lớn, gây ngập úng, lũ lụt, lở đất, thiệt hại cho mùa màng và tài sản của nhân dân. Do điều kiện địa lí nằm ở vùng núi cao nên so với các xã khác trong huyện, khí hậu ở đây có phần khắc nghiệt hơn, thường nằm ở ngưỡng nhiệt độ cao nhất vào mùa nóng và thấp nhất vào mùa lạnh. Mặc dù vậy, thiên nhiên cũng bù đắp cho con người nơi đây một lượng nhiệt khá dồi dào, các vùng đồi núi, những dải đất rộng chạy dài dưới các chân núi thuận tiện cho việc trồng rừng, phát triển chăn nuôi trang trại. Hệ thống các khe suối, hồ đập vừa có tác dụng điều hòa không khí vừa cung cấp nguồn nước vào mùa hạn hán, tiêu thoát nước mỗi khi có mưa lũ, không gây ngập úng dài ngày. Vượt lên mọi khó khăn, nhân dân Nghi Hưng với bản chất cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất đã giành nhiều công sức chế ngự thiên nhiên, thời tiết khí hậu, xây dựng cuộc sống ngày càng phát triển. Hệ thống giao thông ở Nghi Hưng tương đối phức tạp do địa hình kéo dài, dốc và bị chia cắt bởi đồi núi và các khe suối. Ở phía bắc vào phải đi qua 3 truông: truông Riềng từ cầu Cấm đi lên, truông Sắt từ mỏ đá Lèn Dơi sang, truông Chợ Dạo từ Diễn Châu sang. Phía đông xã là dòng sông Cấm có 2 bến đò chính: bến đò Hưng Vận thuộc địa bàn xóm 1 đi sang và bến đò Nhân Hòa nối với làng Tam Đa. Có tuyến đường từ phía nam đi qua xóm Thạch Khê đến Nghi Đồng và Nghi Phương. Các tuyến đường đều hẹp, quanh co. Nhìn chung, hệ thống giao thông ở Nghi Hưng khá phức tạp, cả đường sông và đường bộ. Trong đó chủ yếu là hệ thống giao thông đường bộ với đặc trưng nhỏ hẹp, bị đứt đoạn bởi sự chia cắt của địa hình sông, núi.
Với địa hình phức tạp, kéo dài, dốc và bị chia cắt nhưng với quyết tâm xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn để phát triển kinh tế xóa đói, giảm nghèo, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã huy động các nguồn lực trong xã, tranh thủ sự đầu tư, hỗ trợ của các cấp, các ngành nhằm xây dựng và nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn toàn xã. Hiện nay, Nghi Hưng là một trong những xã miền núi của Nghi Lộc có hệ thống đường giao thông tương đối thuận lợi nối liền các xã trong huyện với tổng chiều dài các tuyến: đường nhựa 12,5 km, đường bê tông 33  km và các tuyến nội xóm được bê tông hoá.
 Các tuyến đường chính liên xã, xóm gồm tuyến chính: Từ Quốc lộ 1 A qua xóm  6, 5, 4, 3 đi  Nghi Đồng, Nghi Lâm,  Tuyến từ  N5 đi xóm  1 đến khu công sở xã, tuyến từ N5 qua xóm Xuân Mỹ Nghi Đồng đến xóm 2 Nghi Hưng đí qua xóm 4 đến khu công sở xã , Tuyến xóm 4 đi đến các trường học đi đến xóm 6.  Có tuyến đường nhựa từ xóm 2 đi đến đập Ồ Ồ tuyến từ xóm 5 (Thái Yên)  qua xóm 6 ( Hưng Vận) đi Nghi Phương; tuyến bắt đầu từ xóm xóm 5 (Thái Yên)   đi qua xóm 5 (Khe Cù, Xuân Sơn, Khăm Đồng) đến Nghi Đồng; tuyến từ rú Thần (Xuân Sơn) đi xóm 6 ( Hưng Vận); tuyến từ xóm 4 (Chại Khế) qua xóm 2 ( Đồng Cương, Khăm Đồng) đến đường Cửa Sẻ giáp Nghi Phương; tuyến từ cầu Cấm (núi Riềng) đi qua xóm 2 (Khăm Đồng, Đồng Cương). Ngoài các tuyến chính còn có nhiều đường nối các khu dân cư và các gia đình đều được bê tông hoá.
Do điều kiện địa hình phức tạp, với các khe suối, bàu đầm chia cắt, có nhiều cầu cống. Trong quá trình xây dựng phát triển, nhân dân đã dùng nhiều công sức, tiền của tập trung xây dựng để phục vụ đời sống và nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Toàn xã hiện có các cầu, cống như: cầu Yên Lãng qua Hưng Vận đi Tam Đa, Nghi Phương và Nghi Đồng. Nghi Hưng có 2 cống ngăn mặn lớn: cống đập Chủng và cống sông Su, ngoài ra còn có các cống đập Xã, cống đập Cụt, cống Dòng, cống Đập Thượng, cống Tơ Vụ (Công Trường)...Hồ điều hoà Khe Xiêm ở xóm 3, có diện tích 0,7 ha với trữ lượng nước 20 ngàn mét khối.
    Mặc dù điều kiện địa hình phức tạp, gây khó khăn cho xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn nhưng từ bàn tay lao động sáng tạo, nỗ lực vươn lên khắc phục, cải tạo thiên nhiên, cùng với sự quan tâm hỗ trợ của các cấp, các ngành, nhân dân đã tập trung mọi nguồn lực xây dựng được mạng lưới giao thông nông thôn tương đối hoàn chỉnh, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương.
   Nhìn tổng quát, vị trí địa lí tự nhiên của Nghi Hưng có tổng diện tích tự nhiên 1.534,6 ha, nằm trong vùng quy hoạch khu kinh tế Đông Nam và những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: nằm án ngự trên tuyến núi phía bắc, nối Quốc lộ 1A, dòng sông Cấm nên có vị trí địa lí đặc biệt quan trọng đối với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đặc biệt là trong thời chiến. Các dãy núi chạy dài theo hướng tây nam và đông bắc ôm trọn vùng đất phía đông bắc Nghi Lộc và có các ngọn núi cao rất thuận lợi cho phòng thủ và tác chiến khi có giặc ngoại xâm.
Thứ hai: Địa hình bao gồm nhiều dãy núi, đồi, hệ thống hồ đập, khe suối tạo nên những thuận lợi nhất định trong phát triển kinh tế, nhất là nghề trồng rừng, các loại cây công nghiệp lâu năm và nghề chăn nuôi trang trại quy mô lớn.
Thứ ba: Bên cạnh những lợi thế, tiềm năng cũng như các xã miền núi khác của Nghi Lộc, Nghi Hưng chịu ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, bão lụt, lở đất. Địa hình nơi đây bị chia cắt, đất đai kém màu mỡ, diện tích đất canh tác không tập trung, thiếu hệ thống thủy lợi, gặp nhiều khó khăn trong xây dựng và phát triển hạ tầng giao thông nông thôn.
Thứ tư: Là xã miền núi, nằm cách trung tâm huyện lỵ khá xa, khó có điều kiện phát triển, đặc biệt là trong giao thương trao đổi kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục; phụ thuộc nhiều vào đầu tư phát triển các tuyến đường giao thông liên xã và huyện. Trước đây, các hoạt động giao thương kinh tế của Nghi Hưng chỉ tập trung với các xã như: Nghi Mỹ, Nghi Phương, Nghi Đồng, Nghi Yên…
Tình hình kinh tế: Cũng như các vùng khác của huyện Nghi Lộc, cư dân sống trên địa bàn Nghi Hưng từ bao đời đều lấy nông nghiệp làm nghề chính. Sống trên vùng đất vừa khô cằn vừa bị ngập úng, địa hình bị chia cắt, diện tích canh tác không tập trung, con người nơi đây đã phải tự vươn lên chế ngự thiên nhiên, dựa vào thời tiết, điều kiện đất đai để cơ cấu mùa vụ, cây trồng thích hợp. Trước đây, trong điều kiện sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp, ít có điều kiện áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật thì vụ lúa chiêm (đông xuân) là vụ chính trong năm. Cây lúa là cây trồng chủ lực, được nhân dân trồng hầu hết trên diện tích canh tác ở cả ruộng sâu và cao. Do địa hình bị chia cắt và dốc, đất đai kém màu mỡ và vùng đất thấp trũng phía đông nên việc trồng lúa cũng gặp nhiều khó khăn. Trải qua hàng trăm năm, con người nơi đây đã bền bỉ, sáng tạo khai phá các khe suối, đắp đập giữ nước, bồi đắp cải tạo đất, tuyển chọn giống qua nhiều thế hệ để cây trồng có khả năng chống chịu với sự khắc nghiệt của thời tiết, thổ nhưỡng khô cằn của vùng đồi núi và vùng đất ngập trũng nơi tiếp giáp với dòng sông Cấm. Vụ chiêm (đông xuân), cây lúa được trồng ở những diện tích canh tác sâu trũng, gần các khe bàu, hồ đập tiện cho việc tưới tiêu. Diện tích đất cao trồng các loại cây hoa màu như: lạc, ngô, khoai, đậu, vừng, sắn. Với diện tích canh tác khá lớn, hàng năm cơ bản đáp ứng nhu cầu lương thực cho nhân dân trên địa bàn và hỗ trợ một phần thu nhập, đảm bảo cuộc sống của người dân trong nền kinh tế tự cung, tự cấp.
Ngày nay, với chủ trương chuyển đổi cây trồng mùa vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp, từ chỗ sản xuất 2 vụ trong năm nay tăng lên 3 vụ với nhiều loại cây trồng có năng suất và giá trị kinh tế cao.
Với hệ thống đồi núi và diện tích các vùng đất cao cưỡng tương đối lớn, Nghi Hưng có nhiều điều kiện thuận lợi cho nghề trồng rừng và phát triển mô hình kinh tế trang trại tổng hợp. Trước đây, nhân dân chủ yếu trồng các loại cây phục vụ nhu cầu đời sống dân sinh: làm củi, làm nhà, bắc cầu, cống như bạch đàn, xoan… với quy mô nhỏ. Nghề chăn nuôi cũng khá phát triển nhưng do thiếu vốn và kĩ thuật nên quy mô còn nhỏ, lẻ, thiếu sự liên kết. Sau khi có chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ, vật nuôi, chuyển diện tích đất cưỡng sang đất màu, phát triển chăn nuôi trang trại và chính sách khoán rừng đến từng hộ dân, nhân dân đã mạnh dạn đầu tư trồng rừng và phát triển kinh tế trang trại. Hiện nay trên địa bàn xã đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại tổng hợp kết hợp trồng rừng và chăn nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Cùng với sản xuất nông nghiệp là nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đặc biệt, nhân dân có truyền thống nuôi bò, gà trang trại. Với kinh nghiệm lâu đời, nhiều hộ gia đình ở đây giành một phần thời gian, lao động trong việc chăn nuôi bò và gà, vịt theo mô hình trang trại cho thu nhập cao. Ngoài ra, một bộ phận lao động còn tham gia các ngành nghề dịch vụ buôn bán, làm nghề mộc, xây dựng... Nhưng do điều kiện địa hình bị chia cắt và nằm khá xa trung tâm huyện lỵ nên các ngành nghề, thương mại, thủ công ít có điều kiện phát triển. Nghề trồng lúa là nghề lâu đời nhất ở Nghi Hưng. Với hệ thống các vùng đất bồi có cương vực tương đối lớn xen lẫn là các bàu đầm, khe suối thuận tiện cho việc tưới tiêu, trải qua nhiều thế hệ, các cư dân nông nghiệp chủ yếu giành thời gian và công sức tập trung vào sản xuất lúa phục vụ nhu cầu lương thực của nhân dân và dùng để trao đổi buôn bán. Bên cạnh các ngành nghề chính, ở Nghi Hưng trước đây cũng xuất hiện nhiều ngành nghề phụ mang đặc trưng của cư dân nông nghiệp vùng núi, có các nghề như: săn thú, đốt củi bán than và đặc biệt là nghề làm chổi đót. Với đặc trưng của một nền sản xuất thuần nông tự cung, tự cấp và do điều kiện lịch sử hình thành dân cư các xã thuộc vùng tây Nghi Lộc, nên Nghi Hưng không có chợ. Các sản phẩm nông nghiệp và kinh tế hộ gia đình như: lúa, khoai, sắn, thịt gia súc, gia cầm, sản phẩm rừng: than, củi, đót chủ yếu trao đổi nội bộ và mua bán ở chợ Quán (Nghi Hoa), chợ Đình (Nghi Long), chợ Nghi Yên… Các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục nhu cầu đời sống như: thuốc men, vải vóc, nông cụ, vật tư sản xuất… đều trao đổi buôn bán qua hệ thống các đại lý, dịch vụ, cửa hàng hợp tác xã hoặc của tư thương.
Từ một vùng đất hoang sơ, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, sản xuất nông nghiệp vẫn là nghề truyền thống, bằng bàn tay lao động, đức tính cần cù, tinh thần vượt khó, vượt khổ, tình yêu quê hương, óc sáng tạo và nỗ lực không ngừng, nhân dân Nghi Hưng đã đoàn kết chung sức, chung lòng để xây dựng nên một cộng đồng dân cư gắn bó khăng khít có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

 
  1. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI
Sự hình thành dân cư: Do cơ tầng địa lí vùng đồi núi ít bị biến đổi so với các vùng đất thấp trũng ven biển nên địa hình Nghi Hưng ngày nay vẫn còn giữ được những nét nguyên thủy. Cách đây hàng ngàn năm, những chuyển động trong lòng đất tạo nên những cơn địa chấn trên bề mặt. Sự hoạt động của hệ thống núi lửa tạo ra các vùng núi đá, các hồ đập, các dòng nham thạch nóng chảy tạo nên những vùng đất đỏ pha đá chạy dọc theo các triền núi  xuống các vùng đất thấp hơn. Sự chuyển động mạnh mẽ của bề mặt trái đất còn tạo ra các khe suối, hệ thống hồ đập ở những vùng núi cao. Sau hàng ngàn năm thì bề mặt trái đất tương đối ổn định, các vùng đồi núi ít bị biến đổi và bắt đầu có sự xuất hiện của dân cư. Địa hình Nghi Hưng ngày nay phản ánh rất rõ những quy luật tự nhiên ấy.
Đối với các cư dân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển cũng gắn liền với các dòng sông, các vùng đất, bãi bồi ven các cửa sông. Với địa thế đồi núi tương đối hiểm trở, ngăn cách so với vùng đồng bằng ven biển nên cư dân ở Nghi Hưng hình thành và sinh sống muộn hơn. Từ đời nhà Trần, vùng đất Nghi Hưng đã có dân cư sinh sống và đến đầu thế kỉ XV (Nhà Lê) thì dân cư còn thưa thớt. Cùng với sự biến đổi, phát triển của lịch sử, thế thịnh suy của các triều đại phong kiến đã tạo ra sự thiên di của con người với nhiều nguyên nhân khác nhau. Một bộ phận dân cư từ miền Bắc vào, trong Nam ra và sự dịch chuyển của các vùng dân cư lân cận đã hình thành nên cộng đồng cư dân Nghi Hưng. Cũng như những vùng đất khác, cư dân Nghi Hưng là nơi hội tụ của nhiều dòng họ từ các vùng, miền khác nhau nhưng tất cả đã kết thành một cộng đồng khăng khít, ổn định, góp phần hình thành xây dựng nền văn hóa vật chất, tinh thần trong thể thống nhất của nền văn hóa xứ Nghệ và dân tộc Việt Nam. Người có công chiêu dân, lập ấp khai phá mảnh đất Nghi Hưng ban đầu với những cánh đồng như:  Chài Vần, Vận Trữ (ở Hưng Vận), Vận Độ, Hạ Căng (ở Yên Lãng) Nông Đồng, Kỳ Tàn (ở Tam Đa), Tháp Xứ, Cự Độ… là Thái Bảo Trần Bá Chúc. Cuối thế kỉ XV, ông đã chiêu dân từ các tỉnh ngoài Bắc, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương về khai ấp lập làng đậu cư trên mảnh đất Nghi Hưng. Khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ở chân núi Thạch Khê (đền Quả Khê). Năm 1946 khi thành lập xã Thần Sơn, ngôi đền là nơi làm việc của Ủy ban hành chính xã. Thái bảo Trần Bá Chúc là dòng tộc với Trần Quang Khải. Theo gia phả họ Trần ở làng Nhất Tộc (Nghi Đồng) soạn năm Dương Đức thứ 2 (1673), tổ bốn đời của ông là Trần Bá Hựu ở xã Bảo Trình.
Trần Bá Chúc theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (1418) đánh thắng giặc Minh. Ông được ban thưởng điền trạch tại Quả Khê. Đến đời Lê Thánh Tông (1459 - 1497), triều đình đem quân đánh nước Chiêm Thành, ông được giao việc phục vụ quân lương ở Nghệ An. Để tiếp tế cho quân lính, ông có sáng kiến lập các kho quân lương dọc đường hành quân, dọc các triền sông rất thuận lợi cho việc tiếp tế. Về già, ông được phong tước, lập đền thờ khi mất, cấp ruộng tế. Theo bản khai ruộng đất xã Quả Khê năm Minh Mệnh thứ 16 thì phần ruộng đất công điền cấp cho họ Trần của ông có 17 mẫu 6 sào 6 thước. Ngoài ra, xã Quả Khê còn hưởng thừa tự cúng tế đền thờ ông 10 mẫu. Hàng năm, cứ đến ngày 20 tháng Giêng âm lịch, các chức sắc xã Quả Khê tổ chức rước sắc phong do triều đình ban cho ông và tổ chức cúng tế. Đền thờ của ông sau này được Thần Sơn - Ngô Quảng đưa về gần mộ ông ở Thạch Khê. Thái bảo Trần Bá Chúc được sắc phong thần: Bản sắc phong cũ nhất là bản năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730): “Phó Thái Bảo Lãng Quận Công kháng phù trợ Quốc tích phúc khang dân”. Đến đời Thiệu Trị thứ 6 (1846), ông được sắc phong là  “Cương trung trung đẳng thần”. Người có công chiêu dân lập thôn Hưng Vận là ông Lê Hưng Vận. Cuối thế kỉ XVII, đời nhà Lê, ông đã đem con cháu từ ngoài Bắc vào khai khẩn đất đai tạo ra các cánh đồng và lập ra thôn Hưng Vận. Về sau, nhân dân lấy tên ông để đặt tên cho vùng đất này.
Tổ tiên ông Lê Hưng Vận là các ông Lê Văn Thọ, Lê Văn Đạt đời nhà Lê. Đến cuối thế kỉ thứ XVII, ông đem gia đình và con cháu vào khai khẩn ở xã Cảo Trình. Khi mất, ông để lại toàn bộ đất đai cho con là Lê Hưng Tạo. Theo sách Vân Trình (Văn tổng phụ tự soạn năm Tự Đức thứ 33 - 1880) ghi là: Lê Hưng Vận làm quan đến Tham đốc hầu, không rõ ông mất ở đâu, mộ chiêu hồn nạp táng ở giếng Me (Phương Tích) cùng một chỗ với anh em trong họ như Tri phủ Lê Văn Bản, Tri huyện Lê Hữu Chất. Chi họ Lê này còn ở Đa Phúc (Nghi Công). Sự hình thành dân cư trên vùng đất Tam Đa còn có một số hộ dân từ Nghi Thuận đến khai khẩn đất đai định cư sinh sống. Năm 1862 có 33 hộ với 117 nhân khẩu theo đạo Thiên Chúa thuộc xứ Nhân Hòa (Nghi Thuận) sang ở vùng Tam Đa, đến năm 1964 chuyển đến xóm Xuân Sơn và sau này chuyển vào vùng Khe Cù (xóm 10) nay là xóm 4, hiện nay có 83hộ với 423 nhân khẩu, chiếm 8% dân số toàn xã.
Từ cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII, các dòng họ khác từ các tỉnh phía Bắc như: Thanh Hóa, Thái Bình, Hải Dương…, các tỉnh phía Nam như Hà Tĩnh, Quảng Bình… và các huyện trong tỉnh tiếp tục đến khai khẩn đậu cư ở Nghi Hưng như: họ Hồ, họ Ngô, họ Trần, họ Nguyễn... lập nên cộng đồng dân cư đông đúc và ngày càng khăng khít.
Quá trình hình thành, phát triển dân cư Nghi Hưng là sự quần tụ của các dòng họ với nhiều nguyên nhân và qua nhiều thời gian khác nhau. Trong quá trình tìm hiểu các dòng họ đến định cư, cộng cư ở Nghi Hưng được biết: do sự thăng trầm của lịch sử, thiên tai, địch họa... nhiều dòng họ không lưu giữ được gia phả nên các thế hệ con cháu ít biết về những tính cách, nghĩa cử, công đức, gương sáng của các bậc tiền nhân của dòng họ, gia tộc, làng xóm, quê hương; những sự tích, câu đối,  văn  thơ, những bài thuốc gia truyền... và chính nguồn gốc tổ xưa của dòng họ mình.
    Trải qua bao đời, cùng với bao biến cố, thăng trầm của dòng chảy lịch sử dân tộc, các thế hệ nối tiếp trong các dòng họ đã xây dựng nên một cộng đồng dân cư Nghi Hưng đoàn kết, quý trọng tình nghĩa. Trong cuộc sống của mình, cũng như nhân dân các làng xã khác, nhân dân phải vươn lên chế ngự thiên nhiên, đấu tranh chống áp bức, bất công, giải phóng mình khỏi thân phận nô lệ, cùng chung sức xây dựng cộng đồng dân cư đoàn kết, hình thành ý thức cộng đồng làng xã, phát triển thành ý thức quốc gia, dân tộc. Trải qua hàng thế kỉ, cộng đồng cư dân Nghi Hưng cùng nhau xây dựng những giá trị văn hóa bản địa đặc sắc trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Những sáng tạo và sinh hoạt văn hóa địa phương cũng tạo nên một dòng chảy bất tận từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, trở thành sợi dây kết nối các thế hệ con người Nghi Hưng với nhau. Các dòng họ từ nhiều vùng, miền, thời gian khác nhau quy tụ về nhưng tất cả đều nhanh chóng hòa nhập để thành “dân bản địa”, cùng chung sức xây dựng một cộng đồng dân cư gắn bó, mỗi người đều quan tâm, tôn trọng, giúp nhau trong lúc khó khăn, bệnh tật, thiếu thốn, hoạn nạn, hay việc hiếu, việc hỷ đều cùng nhau chia sẻ, tạo nên cái gốc văn hóa trọng tình, trọng nghĩa. Mỗi gia đình, cá nhân đều tìm thấy ở làng xã mình không chỉ là chỗ dựa về vật chất mà chủ yếu còn là tình cảm, tinh thần nên họ luôn thể hiện được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với dòng tộc, làng xóm, cộng đồng dân cư Nghi Hưng và rộng hơn là quê hương, đất nước, dân tộc.
Sự hình thành cộng đồng cư dân Nghi Hưng ngoài việc gắn với sự hình thành các làng xưa thì còn có một bộ phận hình thành gắn liền với việc lập nên những làng mới do thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước để điều chỉnh mật độ dân cư, di dân khai hoang mở rộng diện tích sản xuất, phát triển kinh tế vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Mặt khác, một bộ phận dân cư các xã phía đông Nghi Lộc trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã sơ tán lên định cư sinh sống tại Nghi Hưng. Chính điều đó đã góp phần làm cho dân cư vùng đất này có nhiều dòng họ riêng biệt.
Quá trình phát triển của các dòng họ, dân cư gắn liền với sự hình thành của làng xã trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Từ đó, làng xã trở thành cơ sở bền vững để bảo tồn nền văn minh nông nghiệp lúa nước mà bao thế hệ người dân đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả xương máu để tạo dựng, xây đắp. Truyền thống dân tộc đã được hình thành, thể hiện rất đa dạng và phong phú ở các làng xã trong cộng đồng cư dân Nghi Hưng. Trải qua hàng trăm năm, các thế hệ cư dân nơi đây cùng uống chung giếng nước, cùng hóng chung bóng mát của mái đình, cây đa, cùng chung những lễ hội văn hóa, đã đồng cam, cộng khổ, đoàn kết, nghĩa tình thủy chung, cùng nhau vượt qua mọi thử thách gian khổ của thiên nhiên, chiến tranh… để mở mang địa giới, lập làng, lập xóm, xây dựng quê hương và hình thành nên những giá trị văn hóa, bản lĩnh và sức sống của con người Nghi Hưng.
Từ khi có ánh sáng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Nghi Hưng đã phát huy truyền thống của mình, góp phần xứng đáng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, xây dựng quê hương ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Văn hóa tín ngưỡng, tâm linh: Làng xã là một không gian văn hóa đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước Việt Nam. Với tính chất khép kín trong một khoảng không gian cư trú, cùng với sự phân định ranh giới, làng là tập hợp một cộng đồng người, chủ yếu là một tổ chức xã hội sản xuất nông nghiệp thu nhỏ tự cung, tự cấp. Hầu như các làng đều có họ gốc. Cùng với quá trình phát triển, có sự định cư của các dòng họ khác và sự tăng trưởng dân số tạo nên một quy mô lớn hơn với sự đan xen dân cư của các dòng họ. Các mối quan hệ, nguyên tắc ứng xử làng xã được quy định bởi hương ước. Đó là một dạng thể chế của làng xã bao gồm các quy định, quy ước nhằm đảm bảo cuộc sống và sản xuất, duy trì các mối quan hệ trong làng xã.
    Làng còn là một vùng không gian văn hóa đặc trưng, phản chiếu văn hóa dân tộc. Trong cộng đồng dân cư làng xã, luôn có sự gắn kết với nhau về đời sống tâm linh. Đó là những quan hệ vô hình nhưng hết sức bền chặt được chi phối bởi các quan niệm về thành hoàng, thần thánh. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn, xây dựng cuộc sống, con người luôn phải đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt: hạn hán, bão lụt; chiến tranh; bệnh tật và các biến cố xã hội... Khi chưa đủ điều kiện khống chế, ngăn chặn, khắc phục và lý giải các hiện tượng đó, con người đã phải mượn tới tư duy thần học, thờ cúng các vị thánh thần để mong sự phù trợ, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Cũng trong quá trình đấu tranh và sinh tồn của các cộng đồng dân cư và dân tộc đã xuất hiện những vị anh hùng có công với làng xã, đất nước. Để tỏ lòng tôn kính, biết ơn và phát huy những giá trị truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, đình - chùa - đền - miếu được xây dựng và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân trong không gian văn hóa làng xã. Đó chính là văn hóa tín ngưỡng, tâm linh - một đặc trưng của bản sắc văn hóa làng xã Việt Nam có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân nông nghiệp. Nó tồn tại như một dạng đức tin mà ở đó con người có thể tìm thấy sự bình yên để cầu mong phù hộ độ trì cho bản thân, gia đình và cả cộng đồng được sống trong bình yên, khỏe mạnh, tránh được rủi ro bất hạnh, hy vọng mưa thuận gió hòa, gia đình vui vẻ hạnh phúc, xã hội tự do, bình đẳng hoặc muốn trừ gian, diệt ác, tránh được thiên tai, địch họa.
Đình là biểu tượng tập trung nhất của làng trên mọi phương diện. Đó là trung tâm hành chính, diễn ra mọi công việc quan trọng của làng xã, nơi hội họp, thu sưu, thu thuế, giải quyết các sự vụ của làng xã. Đình còn là trung tâm của các hoạt động văn hóa, tôn giáo, nơi diễn ra các hội hè, biểu diễn chèo tuồng, thờ các Thần Hoàng. Thế đất, hướng đình được xem là điều kiện quyết định vận mệnh của cả làng.
Các làng của Nghi Hưng đều có đình. Đình làng được chọn xây ở những vị trí trung tâm, trên vùng đất cao ráo, nơi hội tụ được đầy đủ các khí thiêng của trời đất, tạo nên thế hưng thịnh cho làng. Đình làng là nơi tổ chức hội họp, các việc làng, các hoạt động văn hóa, lễ hội và cũng là nơi thờ Thần Hoàng làng; mỗi làng có 2 - 3 mẫu ruộng công, hàng năm thu hoạch, sản phẩm dùng chi cho việc tế lễ và tu sửa khi có hư hỏng.
Đình Hưng Vận được xây dựng trên vùng đất cao ở giữa làng, gồm 5 gian bằng gỗ lim, có cấu trúc đẹp và chạm trổ hoa văn tinh xảo. Trước đình có 3 cửa cuốn vòm, gồm một cổng chính, 2 cổng phụ. Đình có hậu điện bài trí đủ bàn thờ sơn son thiếp vàng, thờ thần Thành Hoàng với sắc phong là: Dực bảo Trung hưng thượng đẳng thần. Đình hiện nay không còn dấu tích.
Đình Tam Đa được làm bằng gỗ lim, năm Khải Định thứ 4 (1919), tọa lạc trên diện tích 200 m2 ở phía đông nam của làng, gồm: thượng điện, trung điện và hạ điện, đình thờ Bản cảnh Thành Hoàng. Đình có tường bao quanh, trước đình có sân rộng. Trong chiến tranh, đình được sử dụng làm lớp học cho con em trong xã; về sau bị hư hỏng do bom đạn và bị dỡ bỏ. Hiện dấu tích của đình chỉ còn lại là một cồn đất cao.
Đình Yên Lãng thờ Bản cảnh Thành Hoàng, được xây dựng ở vùng đất phía bắc của làng hướng ra truông Sắt và dãy núi Đại Vạc. Đình làng Yên Lãng có kiến trúc đẹp, làm bằng gỗ lim và được chạm trổ hết sức tinh xảo. Đình có thượng điện và hạ điện. Trước đình là sân rộng có tường xây bao xung quanh, ở hai góc sân có hai cây gạo cổ thụ. Cách đình khoảng 100m về phía bắc có cây đa cổ thụ và giếng nước, ao sen. Trong chiến tranh, đình được sử dụng làm lớp học cho con em trong làng. Về sau bị hư hỏng do bom đạn và mưa bão. Hiện dấu tích của đình làng không còn.
Hệ thần Thành Hoàng được thờ ở Nghi Hưng có 2 loại: loại được vua sắc phong: có tên tuổi, tước vị, có công với làng xã, dân tộc. Loại được nhân dân lập đền thờ từ trước rồi được “quan chức hóa” thành quan lại, trình triều đình ban sắc để giữ làng. Mỗi làng tìm cho mình một vị thần Hoàng làng để tôn vinh. Dù các vị là nhiên thần, nhân thần đều được nhân dân thờ cúng với tâm niệm họ là bậc cai quản, bảo vệ, che chở, định đoạt phúc - họa cho lãnh thổ riêng của làng. Cũng như ở các làng xã khác, Thành Hoàng ở Nghi Hưng nói chung không có tường cao, hào sâu mà chủ yếu là những bờ tre, rặng cây, quanh tụ điểm dân cư, nơi xây dựng thường được chọn rất kĩ lưỡng, chu đáo: ở những chỗ cao ráo, sạch sẽ, thuận cho việc của dân và xem đó là điểm “phát” của làng. Bắt nguồn từ ước nguyện phù trợ và sự trường tồn của cộng đồng làng xã, thờ thần Thành Hoàng đã trở thành một biểu hiện của lịch sử, một thứ tôn giáo gắn liền với phong tục, các quan niệm đạo đức, pháp luật, trở thành một thứ uy quyền vô hình để cho mọi người liên kết thành một cộng đồng chặt chẽ. Các ngày lễ hội được nhân dân cúng tế, nghênh rước chu đáo, uy nghiêm. Các hoạt động văn hóa dân gian được tổ chức, khơi dậy ý thức văn hóa truyền thống của quê hương, hướng tới điều thiện, cầu mong sự bình an đến với mọi nhà, mọi người, thịnh vượng trong cuộc sống, cõi âm yên, cõi dương thịnh, nhà nhà vui vẻ, no đủ. Cùng với việc thờ Thành Hoàng làng, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nhân dân Nghi Hưng xây dựng nhiều ngôi đền để thờ các vị thần, thánh cầu mong được che chở, luôn gặp bình an, may mắn, tránh thiên tai, địch họa.
Đền Nghè ở làng Hưng Vận được xây dựng ở phía tây rú Dứa, mặt hướng phía nam, có diện tích khoảng 400m2 gồm thượng điện, trung điện và hạ điện. Đền thờ thần có vị hiệu: Cao Sơn Cao Các “Thiên văn triều chính”. Trên án thờ được bố trí nhiều đồ vật thờ tự trang nghiêm. Phía trước trung điện là tượng của hai vị tướng chống kiếm đứng gác rất oai phong. Trước đền có bức hoành phi được kẻ vẽ, tô đắp hoa văn rất đẹp. Xung quanh sân đền có tường xây bao quanh. Ngoài sân đền có hai cây nhót cổ thụ quanh năm xanh tốt.
Đền Đầu Rú có sắc phong “Nhất giang tân”, được xây dựng ở độ cao cách mặt đường dân sinh 10m, nằm ở phía đông rú Dứa, với diện tích khoảng 300m2. Trước đền cũng có hai vị tướng chống kiếm đứng gác, được tô đắp công phu. Đường lên đền được ghép đá vững chãi và bằng phẳng. Nhân dân thường đến đền thắp hương, cúng bái để cầu mong phúc lộc, tránh tai ương, bệnh tật.
   Đền Cồn Nhót có diện tích khoảng 300m2 nằm phía tây nam dãy đồng màu cồn Nhót - nay thuộc xóm 6 (Bắc Hưng). Tương truyền đền được xây để thờ một lang y có công bốc thuốc chữa bệnh cứu nhân dân trong vùng. Đền  có cấu trúc giống đền Đầu Rú, phía trước là tượng của hai vị tướng đứng gác. Sân đền khá rộng, có tường bao quanh, hai góc sân có hai cây thông cổ thụ. Xung quanh đền là các bụi cây cổ thụ, xanh tốt.
Ngoài ra, làng Hưng Vận còn có đền thờ Bà ở chân núi Khe Vực thuộc địa phận xóm 6 (Bắc Hưng) bây giờ; đền Thái Yên thuộc xóm 4 (Thái Yên). Đền Trại Khế ở xóm 3 (Chại Khế), thờ Bạch Y Thánh Mẫu thủy liên thần và Hoàng phi phu nhân Tràng Xuân Công chúa, miếu nghĩa trang xóm 2.
Làng Tam Đa có đền thờ Thái bảo Trần Bá Chúc được sắc phong thần: Bản sắc phong cũ nhất là bản năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730): “Phó Thái Bảo Lãng Quận Công kháng phù trợ quốc tích phúc khang dân”. Đến đời Thiệu Trị thứ 6 (1846), ông được sắc phong là “Cương trung trung đẳng thần”.
Làng Yên Lãng có ngôi đền thờ ông, nằm ở phía đông: cách làng 50m, cạnh trục đường giao thông từ Hưng Vận đi Yên Lãng, Tam Đa. Đền có diện tích khoảng 300m2, hướng mặt về phía nam, đối diện với cầu Yên Lãng. Ngoài ra còn có đền Nghè ở xóm 3
( Khăm Đồng).
 Cùng với việc xây dựng Đình, Đền, Chùa thờ thần Thành Hoàng và thờ tiên tổ ở các nhà thờ họ, gia đình thì một bộ phận dân cư Nghi Hưng theo đạo Thiên chúa, xây dựng nhà thờ chúa Giêsu. Nhà thờ giáo họ ở xóm 4. Đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở Nghi Hưng thuộc giáo xứ Nhân Hoà (Nghi Thuận). Qua gần một thế kỉ hiện diện Thiên Chúa giáo đã để lại những dấu ấn văn hoá nhất định, góp phần tạo nên văn hoá tôn giáo trên vùng đất Nghi Hưng. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng đất nước, với tinh thần "Kính chúa yêu nước", "Sống phúc âm trong lòng dân tộc", bà con giáo dân Nghi Hưng tích cực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân góp phần xây dựng quê hương Nghi Hưng ngày càng giàu mạnh.
     Đạo Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ, phát triển rất sớm ở Châu Á nhưng đến đầu thế kỉ sau công nguyên mới được truyền bá mạnh mẽ vào Việt Nam. Với bản chất bao dung và ứng xử linh hoạt của con người Việt Nam nên ngay từ đầu, đạo Phật đã được tiếp nhận; nhưng cũng phải trải qua một quá trình đồng hóa với tín ngưỡng dân gian của từng địa phương mới phát triển. Nhờ tinh thần hướng thiện sâu sắc và sự gần gũi với tín ngưỡng dân gian Việt Nam nên đạo Phật được nhân dân tin và trở thành một hệ tư tưởng bao trùm, để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử tư tưởng tôn giáo cũng như lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vào đời Trần, đạo Phật trở thành quốc đạo và có những đóng góp to lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, giữ gìn độc lập dân tộc. Đạo Phật để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Hầu như ở mọi làng quê, nhân dân đều xây chùa thờ Phật: mỗi ngôi chùa đều được xây dựng ở khu đất thu giữ khí thiêng trời đất, nơi đất cao, tươi nhuận, cây cối tốt lành, chim khôn vui hót, nơi tụ linh, tụ phúc, hướng chùa bát nhã (trí tuệ) phát triển thiện tâm. Quanh chùa thường trồng những cây thiêng như đại, đề, sung, trúc, người vào chùa có cảm giác đầm ấm, trong sáng, thanh tịnh hướng về Phật, hướng con người tránh các điều ác và hành thiện, tự tìm lấy bản chất tốt đẹp của mình. Con người đến chùa cầu mong cho mình thoát khỏi vòng khổ đau, được hưởng phúc lành, được độ trì che chở.
Hầu hết các làng ở Nghi Hưng đều có chùa, đàn, tịnh do nhân dân góp tiền xây dựng. Trong đó có hai ngôi chùa ở làng Hưng Vận và làng Yên Lãng, Chùa Vần ở làng Hưng Vận có tên là “Hưng Long Tự” được xây dựng dưới khu vực khe Chùa, khe Dơi và khe Su có diện tích khoảng 300m2. Chùa ngoảnh mặt hướng nam đối diện với rú Đò, Nghi Thuận. Trước chùa có bàn thạch 2 cấp và hai cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Trong chùa có nhiều tượng phật được làm bằng gỗ mít sơn đỏ. Sau cải cách, chùa bị dỡ bỏ. Hiện nay, nền chùa là nơi đặt mộ của tổ họ Bùi Văn.
Chùa Và thuộc thôn Yên Trạch, làng Yên Lãng (nay thuộc xã Nghi Đồng). Chùa có kiến trúc đẹp, trước sân chùa có trồng cây Si cổ thụ. Trong chùa có tượng Phật được làm bằng gỗ mít kích thước cao 50cm. Tương truyền chùa Và là nơi rất linh thiêng. Nhân dân thường đến để cầu an, cầu tự.
Chùa ở Nghi Hưng không lớn, không có tăng ni, phật tử sớm ngày gõ mõ cầu kinh mà thường do nhân dân cắt cử một vị bô lão trong làng trông coi. Hàng năm đến Rằm tháng 7 (trong quan niệm dân gian là ngày xá tội vong nhân), nhân dân trong làng tập trung thắp hương cúng tế cầu mong cho các linh hồn được chở che, siêu thoát, mong được Đức Phật ban phước. Chùa, đàn, tịnh là một đặc trưng văn hóa ở vùng đất Nghi Hưng, xuất phát từ tinh thần nhân văn trong văn hóa tâm linh của người dân nơi đây, không mang nặng tính chất lễ nghi, tôn giáo. Khác với đạo Phật, Nho giáo vào Việt Nam gắn liền với quá trình bành trướng của phong kiến Trung Quốc. Với chính sách đồng hóa các nền văn hóa bản địa dựa trên hệ tư tưởng thống trị của Nho giáo, những năm đầu công nguyên các quan lại nhà Hán như Tích Quang, Sỹ Nhiếp đã ra sức truyền bá văn hóa Nho giáo vào Việt Nam. Nhưng do ý thức về cội nguồn và sự khác biệt về hệ hình văn hóa nên Nho giáo vấp phải sự phản kháng quyết liệt. Qua 10 thế kỉ Bắc thuộc với chính sách áp đặt và đồng hóa triệt để nền văn hóa bản địa và trước yêu cầu phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là việc xây dựng những nguyên tắc ứng xử, cách quản lí xã hội dựa trên các khái niệm về Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín… Nho giáo có điều kiện phát triển. Đến năm 1070, với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, Nho giáo mới được tiếp nhận một cách chính thức ở Việt nam với vai trò là một hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Với bản lĩnh và sức sáng tạo của nền văn hóa Việt Nam, những mặt tích cực của Nho giáo được nhân dân chọn lọc, phát huy, kế thừa một cách linh hoạt, phù hợp với cuộc sống như cách ứng xử làm cho gia đình hòa thuận êm ấm, xã hội thái bình, ổn định, động viên khích lệ việc học hành, tôn vinh mỗi thành viên trong cộng đồng.
   Khác với các xã ở vùng đồng bằng ven biển phía đông của huyện, ở Nghi Hưng không có nhà Văn Thánh thờ các bậc túc nho, hiền thánh. Nhưng nằm trong dòng chảy văn hóa dân tộc, nhân dân Nghi Hưng đã tiếp thu những tinh hoa, tính tích cực của Nho giáo, sáng tạo linh hoạt trong các hoạt động mang bản sắc văn hóa của mình, xây dựng nên các chuẩn mực trong xử thế gia đình và xã hội như chú trọng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, xây dựng hình mẫu con người có lương tâm sáng suốt lấy tứ đức của người phụ nữ, tứ đức của người đàn ông, các tông chỉ của người quân tử, lấy cái ngay thẳng, trung thực làm lẽ phải, không vị lợi cá nhân mà hại đạo lí, để ngẩng đầu lên không xấu với trời, cúi xuống không thẹn với mọi người... Trong các gia đình của người dân nơi đây thường có các tượng thờ Nguyễn Trãi, Hưng Đạo đại vương… một mặt là mong được che chở, phù trợ, mặt khác để nhắc nhở con cháu sống phải như bậc chính nhân quân tử, coi trọng Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng… biết tu thân (rèn mình) để lập công danh, làm những việc có ích cho làng xã, quốc gia.
    Do đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no đủ, cũng như bao làng quê khác, nhân dân Nghi Hưng cũng thờ cúng Thần Nông nhưng không lập miếu mà thờ chung trong đình làng như Thành hoàng. Theo quan niệm dân gian, Thần Nông là vị thần có công dạy dân nghề làm ruộng, chế ra các loại nông cụ cày bừa, sử dụng trâu, bò làm sức kéo. Là người đầu tiên làm lễ tịch điền (hạ điền). Hàng năm vào ngày lễ Lập xuân, ngày đầu vụ, nhân dân tổ chức tục tế và rước thần, đặc biệt đến ngày thu hoạch nhân dân làm cơm mới cúng tế và rước thần rất long trọng.
Cùng với thờ thần ở các đình, đền, miếu, nhân dân đều thờ phụng tổ tiên ở từng gia đình, dòng họ, một biểu hiện tín ngưỡng có tính văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam. Tục thờ cúng tổ tiên ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết. Từ đó hình thành nên đức tin về sự độ trì hoặc báo ứng. Nhân dân quan niệm, dù ở nơi chín suối nhưng tổ tiên ông bà, cha mẹ vẫn đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu. Các hình thức nghi lễ, cúng bái nhằm bày tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với những người thuộc thế hệ trước. Việc cúng được coi trọng, nhất là ngày mất (kị nhật). Hàng năm đều tổ chức lễ cúng để tưởng nhớ người chết gọi là ngày giỗ. Trước ngày giỗ chính có cúng tiên thường vào buổi chiều như là lời mời, kính báo với tổ tiên và người mất. Ngoài ra, cúng tổ tiên còn làm vào ngày sóc, vọng (mùng 1, Rằm hàng tháng) và vào các dịp lễ tết hay khi trong gia đình có việc trọng đại như cưới vợ, gả chồng, lúc làm nhà, đi xa về hay thi cử đỗ đạt tốt đẹp bình yên để tạ ơn tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà và ở từ đường của gia tộc. Đó là khoảng không gian thiêng liêng nhất tại các gia đình và từ đường. Nhân dân quan niệm “Sống về mồ về mả, ai sống về bát cơm” và trần dương sao cõi âm vậy nên mồ mả ông bà, cha mẹ được chăm sóc chu đáo. Việc thờ cúng được quy định: con cháu cúng tổ tiên 5 đời (tự mình là con, tính ngược lên 4 đời là: cha mẹ (khảo), ông bà (tổ), cụ (tằng), kị (cao) tiếp đến đời thứ 5 thì chuyển đời trên về nhà thờ họ để thờ. Tục thờ cúng ông bà tổ tiên được nhân dân Nghi Hưng hết sức coi trọng. Hàng năm, đến ngày kỵ nhật, ngày đại lễ, nhân dân đều thắp hương, bày lễ để cúng bái các bậc tiền nhân có công sinh thành dưỡng dục. Nhiều gia đình có quan niệm gìn giữ các đồ thờ cúng như hương án, bình hoa, chân đèn… coi đó là những gia bảo thiêng liêng, là gốc tích của gia đình, dòng họ.
  Nhà thờ họ là không gian sinh hoạt văn hóa tâm linh của một dòng họ. Ở Nghi Hưng, hàng năm vào các ngày tết Nguyên đán, Rằm tháng Giêng (15.1 âm lịch), Rằm tháng bảy (15.7 âm lịch), con cháu từ khắp mọi miền đất nước lại tập trung về nhà thờ họ để đoàn tụ, phúng viếng và báo công với ông bà, tổ tiên. Những hoạt động này vừa mang yếu tố tín ngưỡng, tâm linh vừa thể hiện tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện lòng đạo hiếu, tôn kính uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục, xây dựng cuộc sống cho con cháu. Hoạt động của dòng họ còn có ý nghĩa giáo dục ý thức cội nguồn, xây dựng mối đoàn kết, phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng tộc. Ngày nay, các dòng họ ở Nghi Hưng còn có các hoạt động khuyến học, hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo, góp vốn phát triển sản xuất, chia ngọt sẻ bùi, ốm đau, hoạn nạn... Các quan niệm gia đình, dòng tộc “Dương danh hiển gia” được đề cao gắn với xây dựng gia đình văn hóa, dòng họ văn hóa, góp phần điều hòa các mối quan hệ xã hội theo những chuẩn mực đạo đức và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Sự phát triển của nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một tất yếu của lịch sử, nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của con người. Nhưng chính nó cũng phá vỡ đi không gian truyền thống và quy mô làng xã của văn minh nông nghiệp lúa nước Việt Nam. Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không tránh khỏi những tác động làm biến đổi về mặt cấu trúc văn hóa làng xã thể hiện ở sự thay đổi hạ tầng giao thông nông thôn, các thiết chế văn hóa, các quan niệm sống và những quy chuẩn về hành vi đạo đức… Thế nhưng từ trong sâu thẳm của tâm thức, mỗi người dân Việt Nam nói chung và con người Nghi Hưng nói riêng đều ghi nhớ hình ảnh về một làng quê yên tĩnh, thơ mộng với không gian tĩnh lặng trưa hè, các buổi sinh hoạt văn hóa lễ hội tạo nên một không gian văn hóa hết sức đặc trưng của nông thôn Việt Nam.
Trong không gian văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam, hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình đã trở thành một biểu tượng văn hóa, phản ánh đời sống và các sinh hoạt văn hóa, tinh thần của cộng đồng cư dân làng xã. Đó là những biểu tượng để định danh làng xã, thể hiện sức mạnh và sự thống nhất của một cộng đồng dân cư.
   Cây đa thường được trồng ở đầu làng, là nơi chứng kiến, ghi nhận nhiều sinh hoạt của nhân dân ở làng quê. Không chỉ là chỗ dừng chân, tránh nắng, hóng mát sau một buổi lao động mệt nhọc, cây đa còn là nơi vui chơi của trẻ thơ những trưa hè, những đêm trăng, nơi hò hẹn của các lứa đôi, nơi tổ chức hoạt động văn hóa và cả nơi đàm đạo việc đời, trao đổi việc làm ăn sản xuất, thời tiết mùa vụ, trở thành cánh cửa liên thông làng xã với thế giới bên ngoài. Nghi Hưng có rất nhiều cây đa, cổ thụ được trồng ở các đình làng, ven những con đường ở các thôn xóm. Cây đa ở cồn Tung, cửa hàng, bến Trể, cây đa đình Tam Đa, 2 cây gạo ở Yên Lãng, cây Thị, cây Muỗm ở chùa Vần... Các cây cổ thụ không rõ ai trồng và trồng vào thời gian nào nhưng nó là kết quả lao động sáng tạo của nhân dân khi sống ở vùng thuộc xứ nắng nóng, để có bóng im trên đường từ nhà ra đồng, nhân dân đã trồng đa để làm nơi dừng chân nghỉ ngơi, tránh nắng.
Một biểu tượng nữa của văn hóa làng xã Việt Nam là hình ảnh giếng làng. Mỗi làng có ít nhất một giếng làng và được chọn ở vị trí rất thận trọng, khoa học, vừa thuận cho sinh hoạt dân cư, tránh chạm “long mạch” vừa đảm bảo nguồn nước trong xanh quanh năm bảo đảm vệ sinh. Giếng làng vừa là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân vừa là không gian văn hóa mang tính chất cộng đồng làng xã. Giếng làng là nơi giao lưu, gặp gỡ, trao đổi của các bà, các chị, nơi hẹn hò xe duyên nên tình nghĩa vợ chồng của nam nữ thanh niên; đồng thời cũng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ như hát ghẹo, hát đối... Do điều kiện địa hình, đất đai nên nhân dân Nghi Hưng ít đào giếng tại gia đình mà chủ yếu là sử dụng các giếng làng. Mỗi làng đều có 1 đến 2 giếng, các giếng đều có chu vi lớn, nguồn nước trong xanh, nấu chè xanh thơm ngon như: giếng làng Hưng Vận; giếng Đình, giếng Khế ở Tam Đa, có đường kính 15 mét; giếng Ao Sen ở Yên Lãng.
Văn hóa - giáo dục: Cùng với quá trình hình thành phát triển dân cư, xây dựng đời sống văn hóa tâm linh làm chỗ dựa cho cuộc sống vật chất thì các thế hệ dân cư trên địa bàn Nghi Hưng đã không ngừng vươn lên để mở mang dân trí. Mặc đù điều kiện địa lí khó khăn, giao thông không thuận tiện, dân cư hình thành muộn, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn nhưng các thế hệ cư dân Nghi Hưng vẫn quan tâm tới việc phát triển văn hóa giáo dục, xây dựng nên truyền thống hiếu học. Số đông các gia đình ở Nghi Hưng cho con em đi học là để rèn luyện, bồi dưỡng đạo lí làm người, học để có người đọc văn cúng tế tổ tiên, để đọc viết các văn tự… và không bị coi khinh. Để động viên khuyến khích việc học, mặc dù đời sống các làng còn nghèo, nhưng làng vẫn giành một phần ruộng đất công để làm học điền, biếu điền, để đài thọ cho người đi học và cho các thầy dạy chữ.
Việc học và dạy chữ Nho (chữ Hán) không có trường lớp mà chủ yếu là các gia đình mời thầy về nhà dạy cho con cháu, người biết chữ dạy người chưa biết chữ, hoặc các gia đình khá giả, dòng tộc có điều kiện mở lớp từ 10 đến 15 học sinh rồi mời thầy ở các nơi về dạy chữ. Sách học được phân cấp, lớp thấp học Tam tự kinh, Minh Tâm, Minh đạo gia huấn…, lớp cao hơn học Tứ Thư, Ngũ Kinh, Đại Học, Luận Ngữ… Các gia đình có con đi học cùng nhau góp đất gọi là “điền môn” để nuôi thầy giáo. Mỗi năm, học sinh đi lễ tết thầy 2 lần. Trong lịch sử khoa bảng Nghệ An (1075 - 1919), huyện Nghi Lộc để lại dấu ấn sâu đậm với số người đậu đại khoa: tiến sĩ, phó bảng: 18 người (có 2 người đậu tam trường - tương đương phó bảng đời Nguyễn), cử nhân: 93 người (trong đó Cửa Lò có 2 tiến sĩ, 21 cử nhân). Do dân cư hình thành muộn, điều kiện kinh tế, giao thông khó khăn, ít có điều kiện giao thương mở mang phát triển văn hóa giáo dục nên việc thi cử, đỗ đạt cao ở Nghi Hưng không nhiều.
Ở làng Yên Lãng có sinh đồ Phạm Danh Hiền, Hưng Vận có sinh đồ Phạm Danh Đề, hiệu sinh Phạm Danh Tuấn (Vốn người Yên Lãng), làng Trịnh Đông có sinh đồ Chu Hữu Đại, Tam Đa có 8 hiệu sinh và một số sinh đồ như: Võ Văn Thông đời Lê Chính Hòa và Đậu Hữu Thuyên, ngoài ra có anh em sinh đồ họ Lê (dòng họ Lê ở Hưng Vận). Trong số những người đậu Hán học từ sinh đồ trở xuống ít người tham gia hệ thống hào lại, chủ yếu ở nhà làm nghề dạy học hay bốc thuốc như ông Bùi Khắc Nghị ở làng Tam Đa, ở Hưng Vận có ông Bùi Văn Danh, ở Phương Tích có ông Phang, ông Lương đều làm nghề bốc thuốc trị bệnh. Số ít những người có trình độ Hán học như tuyển sinh, khoa sinh thì tham gia các chức sắc trong tổng, trong làng, hoặc giúp việc tế tự lễ nghi như: làm điểm tế, bồi tế trông coi việc tế tự các đình, đền trong làng.
      Năm 1918, thực dân Pháp bãi bỏ chữ Hán ở Trung Kì và tổ chức dạy học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, việc mở trường học rất hạn chế, mỗi tổng chỉ có một trường. Trường tổng Vân Trình đặt ở Mậu Lâm (Nghi Lâm) chỉ có 3 lớp là Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng, mỗi lớp 30  đến 40 học sinh. Việc học của con em nghèo rất khó khăn. Nhân dân ta vốn mù chữ nay càng mù thêm vì lớp người biết chữ Nho nhưng mù chữ Quốc ngữ. Một số gia đình có điều kiện gửi con em học ở các nơi như Hải Thanh (Nghi Tiến)... Một số con em đã học tú tài như Đậu Nguyên Đình ở Phương Tích. Số được học ở trường huyện chủ yếu là con em nhà khá giả, đa số ở Hưng Vận, Tam Đa. Trong số những người học trường huyện, sau khi thi đỗ tiểu học tiếp tục học lên bậc cao hơn tại trường Quốc học hoặc các trường tư thục ở Vinh để thi bằng đíp lôm (cao đẳng tiểu học). Một số sau đó học đến bậc tú tài của Tây. Tổng số những người đậu bằng Prime (tiểu học) trong xã có: Hưng Vận 8 người (trong đó có một nữ), Tam Đa 1 người, Phương Tích 2 người; đậu cao đẳng tiểu học 3 người; đậu bằng tú tài Tây: 2 người. Những người theo Tây học có trình độ cao đẳng tiểu học thì sau này trở thành công chức làm giáo học, làm thư ký nhà máy ở Vinh, thư kí bưu điện. Một số ít con em xuất thân thành phần phú hữu tiếp tục học lên bậc tú tài. Số con em Nghi Hưng được gửi đi học phần lớn thi đậu sơ học, yếu lược và sau này đều tham gia phong trào yêu nước, cách mạng ở địa phương. Đa số gia đình kinh tế khó khăn nên không thể cho con em đi học. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, một phong trào học Quốc ngữ được phát động, Nông hội Đỏ các làng mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ chủ yếu là con em nông dân nghèo. Đặc biệt, thời kì 1936 - 1939, thực hiện cuộc vận động cải cách hương thôn, việc bỏ tế lễ bằng xôi thịt, hợp tự được vận động tích cực, bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phong trào mở trường dạy học được phát triển mạnh mẽ, mỗi làng đều có lớp học, nhiều phường hội tương tế - ái hữu, hội tư văn xuất qũy góp vào việc chống thất học. Thầy dạy học chữ chủ yếu là những cán bộ, đảng viên, thanh niên dân chủ được tổ chức đảng phân công giao nhiệm vụ, vì thế con em các làng tham gia học rất đông, có lớp mở ban ngày, lớp mở ban đêm. Việc học hành thực sự được đến với người lao động bắt đầu từ ngày có Đảng và đến sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, các làng mời thầy về mở lớp dạy. Đến niên khóa 1953 - 1954, mới có 1 lớp công lập và đến năm 1959 hệ cấp 1 học 4 năm hoàn chỉnh được mở. Năm 1964, trường cấp 2 được xây dựng. Truyền thống hiếu học của nhân dân Nghi Hưng được phát huy, phong trào khuyến học tạo động lực cho các thế hệ con cháu vươn lên, cùng với sự phát triển của xã hội. Ngày nay con em Nghi Hưng có nhiều người thành đạt là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, sĩ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang, các nhà doanh nghiệp... đang phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của Đảng, xây dựng quê hương, đất nước
   Bên cạnh truyền thống hiếu học, Nghi Hưng cũng là vùng đất có nhiều hoạt động văn hóa đa dạng. Tiêu biểu là lễ rước và tế thần Thành Hoàng để cầu mong mưa thuận gió hòa, nhân dân được bình yên, no ấm. Làng Tam Đa, Hưng Vận rước và tế Thành Hoàng làng vào tháng Giêng âm lịch, làng Yên Lãng rước và tế vào tháng 6 âm lịch. Đám rước có kiệu, lọng, trống, chiêng, có phường bát âm, tuồng chèo. Lễ được tiến hành trong hai ngày. Mỗi lần tế rước đều tổ chức hát chèo ở đình làng: nam nữ thanh niên cả vùng đến xem. Dân làng bất kể già trẻ, trai gái đều ăn mặc chỉnh tề để tham gia đám rước. Lễ rước Thành Hoàng đầu xuân ở Hưng Vận, Tam Đa đã đem lại luồng sinh khí mới, xua tan những cực nhọc trong lao động, hứa hẹn một năm mới no ấm, bình yên. Nhân dân Nghi Hưng qua cuộc sống lao động đã sáng tác nên những điệu hò, câu hát rất trữ tình, tha thiết. Đặc biệt là nhân dân các làng Tam Đa và Yên Lãng nổi tiếng với những làn điệu hò khoan có tù và đệm, nghe rất mượt mà, tình cảm. Vào mùa đông cấy ruộng sâu, ngoài người trong xã còn có người ở Hà Tĩnh đến cấy thuê. Đến giờ nghỉ các đám cấy chia thành hai phe nam và nữ để hát gẹo (hát dặm) vang vọng khắp cánh đồng làm cho không khí thêm ấm áp, quên cả mệt nhọc và giá rét mùa đông. Về đêm, nhân dân hai thôn Tam Đa, Yên Lãng còn đốt lửa hát đối thâu đêm. Sau khi cấy xong vụ chiêm, các phường trò, phường chèo các thôn tích cực luyện tập, chuẩn bị cho lễ khai hạ đầu xuân. Sau tiết khai hạ, có một số thôn còn tổ chức đấu vật, cù lộ. Đây là một trò vui dân gian cũng thu hút nhiều người tham gia. Cù lộ làm bằng củ chuối được để ở hai phía theo chiều dài ruộng mạ. Đấu thủ là những nam trung niên có cơ thể mạnh khỏe, dẻo dai, biết cách đấu vật ở trần - chỉ mặc khố ngắn. Khi vào cuộc thì chia làm hai phe để cướp cù lộ đem bỏ vào lỗ phía sân bãi của nhóm mình. Khi có những pha tranh cướp, hoặc đấu vật để cướp cù thì chiêng trống nổi lên xen lẫn với những tiếng hò, hụi của người đi xem làm náo động thôn xóm, tạo không khí vui tươi, lành mạnh khắp vùng nông thôn.
Trong dịp đầu xuân, nhiều thôn ở Nghi Hưng còn tổ chức thi hát chèo, tuồng, lấy những tích chuyện từ Trung Quốc, cũng có thôn diễn chèo, tuồng Trưng Trắc - Trưng Nhị để lại cho người xem những tình cảm tốt đẹp, sống hướng thiện, theo chính nghĩa, biết yêu thương, thông cảm với những số phận bất hạnh, biết căm ghét những bọn gian ác, phi nghĩa.
Về hôn nhân người dân Nghi Hưng theo quan niệm môn đăng hộ đối, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cưới xin theo tập tục cũ, có thách cưới, nộp cheo cho làng. Về tang lễ ma chay tổ chức theo sách “Thọ mai gia lễ”
IV.TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC
  Nhân dân Nghi Hưng sớm có ý thức tham gia các hoạt động đấu tranh yêu nước. Khi giặc Minh xâm lược nước ta, xã Quả Khê đã có ông Trần Bá Chúc ở Nhất Tộc đã theo Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn chống giặc Minh. Năm 1742, nông dân Nghệ An do Nguyễn Diên cầm đầu nổi lên chống bọn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Nguyễn Hữu Cầu đang hoạt động ở miền Bắc thấy phong trào nông dân Nghệ Tĩnh nổi lên mạnh mẽ đã kéo quân vào phối hợp với Nguyễn Diên hoạt động ở các vùng Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc. Nông dân trong xã Quả Khê đã giúp Nguyễn Hữu Cầu xây dựng căn cứ, đắp lũy để chống quân triều đình, hiện di tích còn lưu lại ở Cửa Lũy (Nghi Đồng). Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, các sỹ phu yêu nước ở Nghệ Tĩnh chiêu mộ nghĩa quân lập thành hội Văn Thân chống Pháp rầm rộ khắp các huyện, thành với khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả”. Làng Hải Thanh (Nghi Tiến) là căn cứ khởi nghĩa của Văn Thân huyện Nghi Lộc, làng Đa Phúc (Nghi Công) là nơi nhóm họp các nghĩa quân để tế cờ khởi nghĩa của huyện Hưng Nguyên (lúc ấy Đa Phúc chưa cắt về Nghi Lộc). Trong Hội Văn Thân chống Pháp ở Nghi Lộc có Phó bảng Cao Huy Tuân (Nghi Kim), Tiến sĩ Đinh Văn Chất (Nghi Long) …và Thần Sơn - Ngô Quảng ở làng Tam Đa, Nghi Hưng. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, các sỹ phu yêu nước ở Nghi Lộc trong hội Văn Thân đã chiêu mộ nghĩa quân khởi nghĩa chống Pháp, trong đó có Tiến sĩ Đinh Văn Chất người xã Nghi Long. Thần Sơn - Ngô Quảng nhanh chóng gia nhập nghĩa quân của Đinh Văn Chất. Nhưng thời gian chưa được lâu, cuộc khởi nghĩa của Đinh Văn Chất bị thất bại. Ngô Quảng lại tìm cách liên lạc để chắp nối phong trào, tiếp tục hoạt động với nghĩa quân Phan Đình Phùng.
Năm 1885, ông tham gia nghĩa quân của Phan Đình Phùng và được giao chỉ huy một đội quân ở phía bắc sông Lam. Về sau, ông được cụ Phan cử vào hoạt động ở Quảng Trị, liên hệ chặt chẽ với cai tổng Đắc là tay chân của cụ Phan ở huyện Triệu Phong. Năm 1895, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại, một lần nữa Ngô Quảng mất chủ tướng, nhưng ông vẫn quyết tâm đi theo con đường đã chọn. Năm 1903, sau khi phong trào của Phan Đình Phùng thất bại, Phan Bội Châu đã thu nạp những tướng lĩnh của Phan Đình Phùng trong đó có Ngô Quảng. Từ đây, ông đã giúp Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân từ việc xây dựng cơ sở cách mạng đến vận động thanh niên xuất dương, xây dựng tài chính cho hội. Ông đã xây dựng được một tổ chức yêu nước của giáo dân ở Nghi Lộc, ủng hộ đường lối yêu nước của Phan Bội Châu đứng đầu là các linh mục Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Tường. Nhờ công xây dựng phong trào của Ngô Quảng, Phan Bội Châu đã mở được Hội nghị giáo dân ở Ba Đồn (Quảng Bình).
Đến năm 1906, các nhà khoa bảng có tinh thần yêu nước lập ra hội “Triệu Dương thương quán” ở Vinh do các ông Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Văn Bá, Lê Văn Hoàn phụ trách. Đứng đầu hội Triệu Dương ở Nghi Lộc lúc này là cụ Nguyễn Thức Tự ở Nghi Trường, sau đó có học trò của cụ là Đặng Thái Thân (Nghi Thái) thay cụ lãnh đạo hội Triệu Dương. Đặng Thái Thân là bạn chiến đấu của Phan Bội Châu, được phân công lãnh đạo cách mạng ở trong tỉnh, đặc biệt ở Nghi Lộc. Lúc này, Ngô Quảng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đặng Thái Thân.
   Năm 1906, Đặng Thái Thân cử Ngô Quảng sang Trung Quốc hoạt động trong tổ chức của Phan Bội Châu. Năm Canh Tuất (1910), hội nghị bí mật của hội Triệu Dương tại làng Phan Thôn (Nghi Kim) do Đặng Thái Thân triệu tập bị bại lộ. Cai tổng Thượng Xá đem quân và lính Pháp về vây bắt, Đặng Thái Thân và một số chiến sĩ bị bắt và hy sinh. Thần Sơn - Ngô Quảng và Đội Quyên trốn thoát. Lại một lần nữa, Ngô Quảng mất chủ tướng. Không nản chí, ông cùng các chiến sĩ thân tín ẩn náu ở núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh). Thực dân Pháp đem lính đến vây ráp, Ngô Quảng bí mật trở về Nam Đàn và bị lộ. Ông quyết định trở về làng Tam Đa hoạt động. Năm 1916, thực hiện chủ trương của Quang Phục Hội, ông ra Quỳnh Lưu vận động người xuất dương. Để tránh sự khủng bố của địch, năm 1919, ông đem vợ, con gái và Đặng Thái Thuyến (con trai của Đặng Thái Thân) sang Trại Cày do các sĩ phu Đặng Thái Hứa, Đặng Tử Kính lập ra ở Thái Lan, làm chỗ thu nạp các thanh niên ở trong nước ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Ông đã tích cực vận động nhiều thanh niên ưu tú sang Thái Lan hoạt động như Trần Bá Giào ở Nam Đàn, Trương Văn Lĩnh ở Tụy Anh xã Nghi Phương.
Vào khoảng năm 1927 - 1928, Thần Sơn - Ngô Quảng già yếu, bị bệnh rồi mất vào ngày 26.12 âm lịch tại Thái Lan, thọ 70 tuổi.
Những thanh niên mà ông vận động xuất dương sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh đào tạo, một số trở thành những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam
CHƯƠNG II

                       THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẢNG VÂN TRÌNH, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH

GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)

I.TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ - XÃ HỘI NƯỚC TA TRƯỚC NĂM 1930
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Với sức phản kháng quyết liệt của nhân dân Việt Nam, sau 26 năm, khi Hiệp ước Patơnôt được kí giữa Pháp với triều đình phong kiến nhà Nguyễn năm 1884 thì Pháp mới cơ bản hoàn thành xâm lược Việt Nam. Với chính sách chia để trị, chúng đã thiết lập bộ máy thống trị từ trung ương đến địa phương và chia nước ta ra làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì. Xã hội Việt Nam chuyển sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Ngay sau khi thiết lập xong bộ máy thống trị, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn.
Chế độ bảo hộ Trung Kì điển hình cho sự cấu kết chặt chẽ giữa chính sách cai trị của thực dân Pháp với chính quyền phong kiến tay sai. Với sự vận hành của bộ máy cai trị nhiều tầng nấc, thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai đã thi hành một loạt các chính sách cai trị độc đoán và tàn bạo. Trong bối cảnh chung ấy, nhân dân Nghi Hưng không thoát khỏi cảnh bị đè nén, áp bức, bóc lột. Với chính sách chuyên chế về chính trị, thực dân Pháp vừa trực tiếp cai trị vừa xây dựng một bộ máy chính quyền tay sai thừa hành. Trong xứ bảo hộ có tòa khâm sứ, ở tỉnh có công sứ do người Pháp đứng đầu, ở huyện có tri huyện một viên quan người Việt và một bộ phận quan sai, giúp việc như: đề lại, thừa phái, lục sự, đội lính hầu và lính khố xanh. Bên cạnh bộ máy cai trị có tính chất dân sự đó, còn có những đồn binh do người Pháp chỉ huy, làm nhiệm vụ chi viện, ứng cứu, bắt bớ, đàn áp nhân dân. Quan lại chính quyền huyện trở xuống tổ chức bộ máy tương đối gọn nhẹ nhưng cai trị rất chặt chẽ và đặt dưới sự chỉ huy, kiểm soát của Pháp. Huyện đường (trụ sở) là nơi nghiêm ngặt, thể hiện quyền uy và sự quan liêu của chế độ thực dân, phong kiến. Người dân có việc trình tri huyện phải là người có quan hệ, thế lực, nhiều tiền mới được gặp. Các sự vụ giải quyết đều dựa trên nguyên tắc phục vụ lợi ích người Pháp và giai cấp phong kiến thống trị. Điều đó thể hiện sự kiểm soát khắt khe, quan liêu của bộ máy quan lại, hào lý làm cho cuộc sống của nhân dân bị đè nén, khổ cực trăm bề. Dưới huyện có tổng. Đứng đầu tổng là chánh tổng và một phó chánh tổng giúp việc. Huyện Nghi Lộc lúc này được chia làm 5 tổng: tổng La Vân, tổng Đặng Xá, tổng Kim Nguyên, tổng Vân Trình, tổng Thượng Xá. Xã Nghi Hưng thuộc tổng Vân Trình. Dưới tổng là làng. Làng được chia theo cụm dân cư và căn cứ vào đinh, điền. Bộ máy cai trị ở làng được bố trí chặt chẽ. Đứng đầu làng xã là lí trưởng, phó lí trưởng, giúp việc cho lí trưởng có các ngũ hương. Lí trưởng quyết định mọi việc trong làng và nắm “Mộc triện”.
Trong làng còn có đội “tuần phu” hay “trương tuần” với nhiệm vụ tuần tra canh gác an ninh trật tự trong làng và ruộng đồng. Thâm độc hơn, ở những nơi có nhà thờ Thiên Chúa giáo, chính quyền thực dân phong kiến còn lợi dụng cả thần quyền để cai trị nhân dân, tuyên truyền, kích động phá vỡ khối đoàn kết lương - giáo. Quyền tự do của người dân bị giới hạn đến mức tối đa. Tất cả các hoạt động đều phục vụ lợi ích của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Các hoạt động bảo vệ và xây dựng đời sống của nhân dân đều bị giám sát chặt chẽ nếu trái với chính sách cai trị của chính quyền thực dân phong kiến đều bị bắt bớ, tù đày, đánh đập. Nhân dân lao động không có chút quyền tự do, bình đẳng, nạn áp bức chính trị làm cho đời sống nhân dân vô cùng bế tắc, khổ cực.
Thực hiện chính sách bóc lột và độc quyền về kinh tế, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã đẩy nhân dân ta vào con đường bần cùng hóa. Chúng xây dựng nhà đoan để thu thuế và quản lí việc sản xuất muối, rượu. Chế độ sưu cao, thuế nặng đẩy người dân rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”. Chúng dùng mọi thủ đoạn, biện pháp để bòn rút mồ hôi, nước mắt, công sức lao động của người nông dân. Nhiều thứ thuế vô lí được chính quyền cai trị đặt ra như thuế thân, thuế thu trực tiếp đánh vào nam giới tuổi từ 18 trở lên. Các loại thuế hàng năm đều tăng, trong khi thiên tai hạn hán, bão lụt làm mất mùa xảy ra liên tiếp vào những năm đầu thế kỉ XX làm cho cuộc sống người dân rơi vào cùng cực, điêu đứng. Cũng như các làng xã khác trên cả nước, cứ đến mùa thu thuế, nhân dân Nghi Hưng lại sống trong cảnh lo sợ, điêu đứng, thống khổ với những trận đánh đập, lục soát, bắt giam…
  Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nhân dân Nghi Hưng phần lớn không có ruộng đất, phải đi làm thuê, cuốc mướn, tìm kế sinh nhai. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, ruộng đất bạc màu, ngập úng nên ngày công không đủ sống, đời sống nhân dân vô cùng đói khổ, nhất là vào vụ giáp hạt tháng 3, tháng 8. Để duy trì cuộc sống, nhân dân phải bươn chải tìm thêm việc làm, nghề phụ để trang trải cho đời sống hàng ngày. Ở Nghi Hưng đã xuất hiện một số nghề phụ và phát triển thành nghề truyền thống như nghề xây dựng nhà cửa, nghề đốt củi bán than, nghề làm chổi đót... Những gia đình đông con nghèo đói không đủ ăn thì đem ruộng bán hoặc cầm cố cho tầng lớp phú nông, địa chủ. Đối với nông dân ngoài địa tô còn phải đóng góp những khoản khác như sưu (thuế đinh), các đợt lạc quyên, công trái để phục vụ cho chiến tranh và chính sách mở rộng khai thác của Chính phủ Pháp. Năm 1917 - 1918, lợi dụng các kì thu sưu thuế, lạc quyên, công trái, bọn nha lại, tổng lí, hương kiểm, hương bản cấu kết với nhau phù thu lạm bổ, để vơ vét của nhân dân.
Để phục vụ cho chiến tranh và khai thác thuộc địa, thực dân Pháp còn bắt dân ta đi lính sang Châu Phi để khai mỏ, đóng tàu thuyền… (ở làng Hưng Vận có ông Phan Văn Lan đi lính cho Pháp). Ngoài ra còn phải đi lính khố xanh, khố đỏ. Chúng còn bắt nhân dân đi phu nạo vét đào kênh Nhà Lê, sông Cấm để phục vụ cho khai thác thuộc địa.
Chế độ ruộng đất của thực dân Pháp đầy bất công: phần lớn ruộng đất bị bọn quan lại, địa chủ, cường hào, phú nông chiếm đoạt, một phần bị chiếm làm ruộng tế, ruộng quan, ruộng lính, ruộng nhà thờ, xứ họ, một phần do địa chủ ngoài xã đến cày cấy như: vùng bắc đồng Nông, cồn Cọi thuộc nhà Chung do người thôn Chung Hòa cày cấy; vùng mẫu Ông Thầy thuộc Hà Thôn do người làng Hà cày cấy; vùng đồng Kênh, chùa Lau, chùa Gia thuộc họ Cao Xuân Dục (Diễn Châu); vùng đồng Rộc, đập Pheo do Trương Văn Bảo (Tụy Anh) cày cấy; vùng Bần Trăn, đồng Riềng thuộc đất của ông Khuê Tâm (Phương Tích). Ruộng đất còn lại được chia tư điền và công điền của một số ít địa chủ nhỏ ở vùng Nhất Tộc, Hưng Vận, Tam Đa. Ngoài số địa chủ trên cũng có một số trung nông lớp trên có một ít ruộng, còn tuyệt đại bộ phận nông dân không có ruộng, phải cày rẽ quanh năm thiếu ăn phải làm nghề khác kiếm sống như: làm thuê, làm hàng xáo, hái củi, đốt than…
Ruộng đất được chia cho nông dân rất ít, nhưng lại quy định từ 18 tuổi trở lên mới được cấp. Nhân dân muốn được cấp ruộng không dễ, phải có lễ lạt, tiền bạc đút lót quan trên. Những gia đình đông người nhưng đều là phụ nữ thì không được cấp ruộng. Do sưu cao, thuế nặng, đất đai khô cằn, thiên tai dịch bệnh, rủi ro, hoạn nạn nên một bộ phận nhân dân phải gán ruộng trả nợ, nộp thuế. Mặt khác, chính sách thu đất bù thuế thực chất là cướp đất của người nông dân (không nạp đủ tô thì mất ruộng lĩnh canh, không nạp kịp thuế thì mất vườn, mất ruộng) đã đẩy nhân dân rơi vào con đường bần cùng hóa... Một thực tế của nông thôn Việt Nam lúc này là người nông dân sản xuất nông nghiệp nhưng không có ruộng nên phải làm thuê, lĩnh canh, cuốc mướn. Với chính sách độc quyền kinh doanh một số mặt hàng, đặc biệt như rượu, muối, thực dân Pháp đã đẩy cuộc sống của người dân vào con đường túng quẫn, cơ cực.
Sống trong vùng đất khô cằn, thiên nhiên khắc nghiệt, lại phải chịu nhiều chính sách, thủ đoạn bóc lột của bọn thực dân, phong kiến, bị đè nén, áp bức, nhân dân Nghi Hưng phải sống trong cảnh lầm than, tăm tối.
Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện và rượu cồn. Chúng phân bổ rượu theo đầu người và buộc nhân dân phải tiêu thụ hết. Chúng dung túng, khuyến khích các hủ tục phong kiến, nạn cờ bạc, mê tín dị đoan. Khi chữ Hán phát triển, nhiều gia đình ở Nghi Hưng chung sức nuôi thầy dạy chữ cho con cháu để viết văn khấn tổ tiên, viết khế ước mua bán ruộng đất, vay tiền, lĩnh nợ... Số người thi đậu các lớp không nhiều. Năm 1918, chữ Hán bị bãi bỏ, chuyển sang học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, nhân dân đa số mù chữ Hán nay lại mù chữ Quốc ngữ. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Cả tổng Vân Trình có 16 làng xã nhưng chỉ có một trường  tổng với 3 lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, mỗi lớp có 30 - 40 học sinh. Do nghèo khó quanh năm nên nhân dân không có điều kiện cho con em đi học. Trình độ dân trí rất thấp: trên 90% dân số bị mù chữ.
Thực hiện âm mưu làm suy yếu giống nòi người Việt, chính quyền thực dân phong kiến không quan tâm chăm lo sức khỏe của người dân. Cả tỉnh chỉ có một nhà thương (bệnh viện) nhỏ, cấp huyện không có nhà thương. Khi ốm đau, bệnh tật, nhân dân chủ yếu chữa trị bằng thuốc nam nhờ vào đội ngũ các thầy lang làm nghề bốc thuốc ở các làng xã. Đặc biệt, công tác vệ sinh phòng dịch hết sức yếu kém. Hầu như năm nào dịch bệnh cũng xảy ra, làm chết nhiều người dân. Đời sống vật chất khó khăn, bị áp bức về văn hóa tinh thần, phải lao động mệt nhọc, y tế không đảm bảo... đó là những nguyên nhân làm cho tuổi thọ của nhân dân rất thấp.
Chính sách độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị của thực dân Pháp và bộ máy phong kiến tay sai bù nhìn đã tạo ra trong lòng xã hội Việt Nam những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Lúc này, đời sống chính trị, xã hội Việt Nam là vấn đề độc lập dân tộc, người cày có ruộng là yêu cầu cơ bản, bức thiết, phản ánh nguyện vọng của toàn dân tộc. Đó cũng chính là điều kiện, lí do để nhân dân Nghi Hưng cùng nhân dân cả nước hăng hái tham gia phong trào yêu nước, đấu tranh giành độc lập theo xu hướng mới, vùng lên giải phóng cuộc đời nô lệ.

II.CHI BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931
  1. Phong trào yêu nước
    Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khuynh hướng dân chủ tư sản phát triển mạnh mẽ ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước ở các quốc gia thuộc địa Châu Á. Ở Việt Nam, sau thất bại của phong trào Cần Vương, nhiều sĩ phu yêu nước đã đi tìm một con đường cứu nước mới. Năm 1904, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu lập ra hội Duy Tân với mục đích đưa những thanh niên ưu tú, có tâm huyết sang Nhật học tập để về giành lại độc lập, tự do dân tộc. Nhiều thanh niên Nghi Lộc đã tích cực tham gia và xuất dương sang Nhật. Năm 1908, Nhật đóng cửa trường học, đuổi Phan Bội Châu và học sinh ra khỏi nước Nhật. Đến năm 1912, Phan Bội Châu tập hợp một số nhà yêu nước lập ra Việt Nam Quang Phục Hội. Một số chí sĩ người Nghi Lộc được cử vào các chức vụ chủ chốt. Hội đã cử người về nước tuyên truyền, vận động, liên lạc đưa người sang Thái Lan, Trung Quốc đào tạo nòng cốt cho phong trào, quyên góp tiền bạc để xây dựng lực lượng. Trong phong trào Duy Tân, xây dựng Việt Nam Quang Phục Hội, Nghi Lộc có hơn 20 thanh niên, thân sĩ tham gia xuất dương; phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, sôi động trong các làng xã Nghi Lộc. Làng Tam Đa có Ngô Quảng, bà Bảo (vợ Ngô Quảng), Nguyễn Chính Học sang Thái Lan hoạt động.
Những năm đầu thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến có lợi cho phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917), cuộc vận động Ngũ Tứ (4.5.1919) ở Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ, tạo nên bước phát triển trong phong trào yêu nước Việt Nam. Trước tình hình đó, năm 1925, một số thanh niên xuất dương cấp tiến nhận định rằng không thể hoạt động theo con đường của các sĩ phu đi trước nên đứng ra thành lập Tân Việt thanh niên đoàn (tức tổ chức Tâm Tâm xã).
Đến tháng 7 năm 1925, tại thành phố Vinh, những trí thức yêu nước Nghệ Tĩnh đã nhóm họp và thành lập Hội Phục Việt (sau đổi thành Hội Hưng Nam) với nhiệm vụ truyền bá tư tưởng yêu nước và xây dựng lực lượng chống Pháp. Sau một thời gian hoạt động, tổ chức Hội đã phát triển nhanh xuống các làng, xã ở Nghi Lộc. Những người lãnh đạo Hội đã tập hợp được một lực lượng lớn để xây dựng phong trào. Năm 1928, Hội Phục Việt đã đổi thành Đảng Tân Việt, hoạt động trên địa bàn Nghệ Tĩnh. Năm 1929, Nghi Lộc có 25 đảng viên Tân Việt hoạt động khắp trong các làng xã. Tổng Vân Trình cũng là địa điểm hoạt động của đảng với nhiều hình thức phong phú như mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ, tổ chức phát tờ rơi tuyên truyền nội dung yêu nước. Đảng Tân Việt còn vận động tổ chức các cuộc đấu tranh, tịch thu ruộng đất chia cho dân nghèo, dùng thuế chợ để sử dụng vào việc chung của làng, vận động nhân dân để tóc ngắn, mặc áo ngắn, để răng trắng. Tuyên truyền chủ trương của Tân Việt Đảng qua đọc báo “Tiếng Dân”, báo “Việt Nam Hồn”. Các phường hội tương tế, ái hữu, đọc sách báo v.v... được thành lập. Phong tục, tập quán được cải cách, vận động, xóa bỏ các tệ nạn mê tín dị đoan. Các thôn, làng ở tổng Vân Trình đã thực hiện một số chủ trương của Đảng Tân Việt như xóa bỏ lễ nạp cưới, tiền cheo, các tế lễ đình, đền bằng xôi thịt, ma chay giúp nhau không ăn uống, bỏ đốt vàng mã trong ngày giỗ, lễ v.v... Nhiều tổ chức của quần chúng được thành lập đã tổ chức các hoạt động phong phú dưới nhiều hình thức khác nhau đã góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ các tầng lớp nhân dân đấu tranh theo con đường cách mạng mới. Các cuộc đấu tranh giữa “phe hộ” và “phe hào” được tổ chức ngày càng quyết liệt hơn.  Lúc này, ở Nghi Hưng cũng như khắp các làng quê khác trên đất nước Việt Nam đang hình thành một ý thức, một xu hướng mới của phong trào yêu nước và cách mạng, báo hiệu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
  1. Thành lập chi bộ Đảng Cộng sản
Phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một chính Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trước yêu cầu đó, ngày 3.2.1930, tại Hương Cảng (Hồng Kông) Trung Quốc, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 3 năm 1930, Phân cục Trung ương lâm thời ở Trung Kì được thành lập và sau đó đã chỉ định ra 2 Ban Chấp hành lâm thời tại Nghệ An.
 Tỉnh bộ Vinh (Vinh - Bến Thủy), 2 huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thị xã Thanh Hóa. Tỉnh bộ Nghệ An (gồm các huyện còn lại trong tỉnh). Đến tháng 4 năm 1930, dưới sự chỉ đạo của Phân cục Trung ương và Tỉnh ủy Vinh, những đảng viên Đảng Tân Việt của Nghi Lộc có xu hướng cộng sản đã nhóm họp tại nhà cụ Sơn (Nguyễn Thức Tự) ở Nghi Trường cử ra Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay sau Huyện ủy Nghi Lộc được thành lập, các đồng chí trong Ban Chấp hành và các đồng chí đảng viên được phân công xuống các làng, xã thành lập các chi bộ ghép. Các tổ chức quần chúng cách mạng được thành lập và phát triển nhanh, hoạt động tích cực.
  Tháng 6 năm 1930, đồng chí Nguyễn Xuân Khả (quê Nghi Công) đảng viên Tân Việt ở Thanh Chương về bắt liên lạc và thành lập Chi bộ Vân Trình (chi bộ ghép gồm các làng thuộc tổng Vân Trình). Đây là một trong 15 chi bộ đầu tiên của huyện được thành lập. Chi bộ có 7 đảng viên do đồng chí Nguyễn Phấn Hòa, người làng Tràng Đề (Nghi Mỹ) làm Bí thư. Sau đó, các đồng chí Hoàng Văn Tâm, Lê Huy Điệp, Đinh Văn Thọ… thường xuyên mang tài liệu lên để giúp chi bộ trong định hướng lãnh đạo phong trào cách mạng. Đến tháng 10 năm 1930, chi bộ đã tổ chức được một cơ quan ấn loát tại nhà ông Nguyễn Phúc Chỉnh ở Phương Xuân (Nghi Đồng). Cuối năm 1930, Ban Chấp hành Nông hội đỏ của huyện được thành lập. Dưới Ban Chấp hành Nông hội của huyện, mỗi tổng đã hình thành một Ban Chấp hành Nông hội tổng. Các làng trong tổng Vân Trình cũng đã thành lập các tổ chức Nông hội đỏ. Nông hội đỏ đã vận động, tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho quần chúng, tập hợp các lực lượng hoạt động công khai dưới nhiều hình thức phường, hội. Cùng với Nông hội đỏ là các tổ chức quần chúng khác được thành lập như: Hội Phụ nữ giải phóng, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Cứu tế đỏ... Những thanh niên trai tráng được tổ chức trong Đội Tự vệ Đỏ thường xuyên tập luyện, có nhiệm vụ bảo vệ cơ sở đảng, cán bộ, giữ trật tự trong thôn xóm, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào các hoạt động cách mạng. Tự vệ đỏ là lực lượng nòng cốt trừng trị bọn hào lý, mật thám trong làng, tham gia giải vây cán bộ, nhân dân khi bị địch vây bắt. Các làng trong tổng Vân Trình như: Tràng Đề (Nghi Mỹ), Mậu Lâm (Nghi Lâm), Xuân Kiều (Nghi Kiều) Tam Đa, Hưng Vận (Nghi Hưng)… đều thành lập các Đội Tự vệ đỏ từ 30 đến 40 người. Các tổ chức phát triển mạnh là chỗ dựa vững chắc cho cơ sở đảng phát triển và phát động cao trào cách mạng.
    Sau khi Huyện ủy được thành lập và các chi bộ đảng cơ sở ra đời thì một phong trào cách mạng phát triển sâu rộng khắp các làng, xã trong huyện. Các cuộc mít tinh, biểu tình liên tiếp diễn ra. Ngày 1 tháng 5 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Nghi Lộc, nhân dân các làng Nghi Hưng lúc bấy giờ cùng các làng trong huyện hăng hái tham gia biểu tình, tập trung ở làng Lộc Đa (Hưng Lộc) nghe diễn thuyết kỷ niệm Quốc tế Lao động và phổ biến nội dung biểu tình. Đoàn biểu tình đã tiến vào Vinh - nhà máy Trường Thi cùng công nhân phối hợp đấu tranh, các cuộc biểu tình phát triển với quy mô rộng lớn, lan nhanh đến nhiều vùng. Công sứ Pháp và Tổng đốc Nghệ An đã huy động lực lượng lính đàn áp nhưng đoàn biểu tình vẫn thể hiện tinh thần bất khuất, tin tưởng vào cách mạng, không sợ hy sinh, bắt bớ, tù đày, quyết tâm theo Đảng làm cách mạng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Nghi Lộc đã chỉ đạo các chi bộ đảng phát động phong trào quần chúng đấu tranh rộng khắp có quy mô và tổ chức chặt chẽ.
Ngày 25 tháng 6 năm 1930, nhân dân các làng trong tổng Vân Trình cùng nhân dân các làng trong huyện tập trung ở cồn Mả Nường (Nghi Trường) nghe diễn thuyết phản đối chính sách khủng bố của thực dân Pháp, đòi bồi thường thiệt hại cho nhân dân Sa Đéc, Thái Bình, đòi hoãn sưu, thuế và mở lớp học chữ Quốc ngữ. Ngày 29 tháng 8 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Nghi Lộc cùng với nhân dân trong huyện, nhân dân Vân Trình tổ chức biểu tình đòi giảm thuế điền, bỏ thuế thân, lấy lại công điền chia cho dân, bỏ lệ canh phu tranh tre, cào củi, bồi thường cho các gia đình có người bị chết trong cuộc biểu tình Vinh - Bến Thủy ngày 1 tháng 5 năm 1930.
Trước phong trào cách mạng sục sôi của quần chúng, thực dân Pháp tăng cường khủng bố nhưng các cuộc mít tinh, biểu tình vẫn liên tiếp nổ ra. Khắp nơi, các chủ trương của cấp ủy đảng được phổ biến xuống các chi bộ để tuyên truyền, vận động nhân dân tập hợp lực lượng cách mạng. Nhiều cuộc trừng trị bọn hào lí tay sai, bảo vệ cán bộ, đảng viên được quần chúng tổ chức với sự phối hợp giữa các làng, xã và Đội Tự vệ đỏ. Ngày 18 tháng 10 năm 1930, nhân dân Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận và các làng thuộc tổng Vân Trình cùng nhân dân các làng trong huyện tổ chức biểu tình giải vây cho số cán bộ, đảng viên bị thực dân Pháp bắt giam tại đồn Thượng Xá. Đoàn biểu tình đi đến trường tổng Thượng Xá thì bị binh lính Pháp nổ súng đàn áp làm chết 5 người. Sau đó, thực dân Pháp đưa lính về đóng đồn binh ở Kim Khê  để khống chế phong trào cách mạng ở các làng xã thuộc tổng Vân Trình và các làng xã xung quanh Kim Khê. Tuy vậy, các cuộc đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp không làm nhụt ý chí cách mạng của nhân dân ta. Không chỉ các làng ở Nghi Hưng mà hầu như khắp các làng xã trong huyện các cuộc đấu tranh mít tinh, biểu tình với nhiều nội dung, yêu sách khác nhau được tổ chức cho phù hợp với tình hình cách mạng. Những cuộc trấn áp bọn hào lý tay sai, thực dân liên tục được tổ chức. Khí thế đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ngày càng quyết liệt làm cho thực dân Pháp và bọn tay sai hoang mang lo sợ, chúng tìm mọi cách để đối phó. Ngày 2 tháng 1 năm 1931, Tri huyện Tôn Thất Hoàn đưa lính về làng Song Lộc tìm bắt cán bộ, đàn áp phong trào. Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân bất chấp súng đạn của kẻ địch kéo đến giải vây cho cán bộ, giết chết Tri huyện Tôn Thất Hoàn và 5 tên lính. Sau vụ “Song Lộc”, để đối phó với phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo và trấn an tinh thần lo sợ, hoang mang của bọn hào lí, tay sai, thực dân Pháp tăng cường khủng bố phong trào cách mạng của nhân dân ta bằng nhiều thủ đoạn tàn bạo và dã man. Chúng thành lập thêm nhiều đồn binh và tăng thêm lính, suốt ngày đêm lùng bắt cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng. Để bảo vệ nhân dân, giữ gìn lực lượng cách mạng, Xứ ủy, Tỉnh ủy chỉ đạo Huyện ủy Nghi Lộc triển khai tuyên truyền xuống các chi bộ, các tổ chức quần chúng kêu gọi nhân dân các làng xã đoàn kết đấu tranh, mít tinh, biểu tình bảo vệ nhân dân Song Lộc, giúp đỡ các gia đình sơ tán, gia đình có người bị hại, nhà cửa tài sản bị đốt cháy, lên án hành động khủng bố tàn bạo, dã man của thực dân Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của tổ chức đảng, nhân dân các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận cùng các làng thuộc tổng Vân Trình đã tích cực tham gia các cuộc biểu tình, mít tinh và chia sẻ đùm bọc nhân dân Song Lộc. Để lãnh đạo nhân dân các làng, xã tổ chức những cuộc biểu tình có hiệu quả, đạt được mục đích, các cấp ủy đảng và Nông hội đỏ đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết để tuyên truyền cho quần chúng nhân dân về mục đích, phương pháp các cuộc biểu tình.
   Ngày 16.1.1931, quần chúng nhân dân các làng trong tổng Vân Trình tập trung tại núi Bứa ( Nghi Hoa) biểu tình, tuần hành, thị uy và nghe giải thích về nội dung đấu tranh ở nông thôn. Ngày 17 tháng 2 năm 1931, quần chúng nhiều làng trong huyện tổ chức biểu tình với nội dung khác nhau. Nhân dân Vân Trình biểu tình đòi chia lại ruộng đất công và chia đều xôi thịt cho dân trong các dịp tế lễ, việc làng. Cuối năm 1930 đầu năm 1931, hạn hán kéo dài, mất mùa, nạn đói xảy ra khắp nơi, đe dọa cuộc sống nhân dân nhưng bọn hào lý vẫn bày nhiều trò lễ lạt. Trước tình hình ấy, Xứ ủy có chủ trương vay lúa cứu đói cho dân. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng và Ban Chấp hành Nông hội đỏ đã vận động nhân dân đấu tranh. Thực hiện chủ trương đấu tranh cứu đói cho dân, nhân dân Tam Đa, Hưng Vận, Yên Lãng và các làng Nhất Tộc, Tụy Anh đã tổ chức các cuộc biểu tình trấn áp địa chủ lấy được hơn 350 kg lúa, 1.750 quan tiền để giúp nhiều gia đình vượt qua nạn đói.
    Ngày 30.4.1931, nhân dân các làng trong tổng Vân Trình như: Cổ Lãm, Đồng Qũy, Mỹ Lâm, Mỹ Hòa, Tràng Đề, Mậu Lâm, Tụy Anh, Hà Thôn, Tam Đa, Hưng Vận, Yên Lãng biểu tình tuần hành kéo đến Xuân Mỹ thì bị bọn cố đạo bao vây giải tán. Các cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng nhân dân do chi bộ đảng lãnh đạo đều đạt được mục đích làm sôi động khắp thôn làng, ngõ xóm đến từng gia đình, khơi dậy ý thức đấu tranh để giải phóng mình khỏi thân phận nô lệ. Các cuộc biểu tình đã thể hiện tinh thần bất khuất, kiên cường, không sợ hy sinh, khủng bố dã man của kẻ thù.
Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân phát triển mạnh mẽ khắp nơi làm cho kẻ thù hoang mang, lo sợ. Tại các đồn binh, đồn bang tá, điếm canh, vọng gác, đoàn phu, chúng bố trí thêm lính và kiểm soát chặt chẽ việc đi lại của nhân dân. Trước tình hình đó, Xứ ủy quyết định thành lập hai Ban cán sự: Bắc Nghi và Nam Nghi ở Nghi Lộc, mỗi Ban chỉ đạo một vùng, giúp Huyện ủy chỉ đạo chung toàn huyện. Ban cán sự Bắc Nghi do đồng chí Nguyễn Đình Vỹ ở Thượng Xá làm Bí thư và các đồng chí Nguyễn Xuân Bá (ở Xuân Đình), Nguyễn Đức Trí (ở Kỳ Trân), Nguyễn Trương Lâm (ở Thượng Xá), Nguyễn Thị Phúc (ở Nghi Trung). Dưới Ban cán sự có 5 Ban Chấp hành Phân ủy cho 5 vùng. Ban Chấp hành Phân ủy Vân Trình do đồng chí Hoàng Xuân Ủy phụ trách. Bên cạnh Ban cán sự Đảng vùng còn có Phân bộ nông (Ban Chấp hành Nông hội đỏ). Việc bố trí bộ máy lãnh đạo ở các vùng đã bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng sâu sát phong trào cách mạng quần chúng hơn. Đồng thời, hạn chế sự đi lại của cán bộ, tránh được sự kiểm soát của địch mà vẫn chỉ đạo được phong trào cách mạng. Do sự kiểm soát chặt chẽ của địch, nhất là những vùng xung quanh đồn binh như: đồn chợ Xâm ở Nghi Hoa, đồn Kiều ở Mỹ Lâm, nên một số đảng viên Chi bộ Vân Trình đã bị bắt, một số phải phân tán về các địa phương tiếp tục lãnh đạo nhân dân củng cố lực lượng, xây dựng phong trào, phát động quần chúng tích cực tham gia các phong trào cách mạng. Các tổ chức Hội Phụ nữ giải phóng, Thanh niên cộng sản đoàn, Hội Tán trợ, Hội Cứu tế đỏ, Đội Tự vệ đỏ đều hoạt động tích cực. Nông hội đỏ thực hiện nhiều biện pháp cứu đói cho dân và tổ chức lớp học chữ Quốc ngữ cho 30 người.
Phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên phạm vi cả nước. Do tình thế, thời cơ cách mạng chưa đến, lực lượng và các điều kiện khác chưa cho phép nên Đảng ta không chủ trương giành chính quyền. Nhưng thực tế, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã phát triển lên đến đỉnh cao. Ở Nghi Lộc mặc dù thực dân Pháp bố trí nhiều đồn binh với số lượng lính được tăng cường 40 - 50 lính mỗi đồn nhưng phong trào đã phát triển mạnh vượt ra ngoài chủ trương của Xứ ủy, Tỉnh ủy. Nhiều nơi đã làm cho bộ máy tay sai phong kiến hoang mang tan rã và đã lập được bộ máy chính quyền cách mạng điều hành công việc của làng xã.
Nhằm đối phó với phong trào cách mạng, thực dân Pháp đã tiến hành chính sách khủng bố tàn bạo gây nhiều tổn thất cho Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng. Chúng huy động một lực lượng lớn lính khố xanh, lính lê dương, lập thêm nhiều đồn bốt, điếm canh, hệ bang tá, đoàn phu cùng lính đồn bốt ngày đêm về từng xóm tìm kiếm, vây ráp, bắt bớ, tàn sát cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Ở đình làng Nhất Tộc, Hà Thôn đều có đồn lính do chúng lập nên để khống chế phong trào cách mạng thuộc các làng Vân Trình hạ. Chúng lập hệ bang tá đến thôn, có lính vũ trang từ 3 đến 5 người. Trong thôn xóm có đoàn phu được trang bị gậy bịt sắt nhọn để khống chế quần chúng nhân dân. Các thôn xóm đều phải rào làng, có cửa ra vào, bố trí điếm canh kiểm tra người qua lại, bờ tre được hớt ngang mái nhà, trong nhà có chòi cao để quan sát. Nam giới từ 18 tuổi trở lên phải nhận thẻ quy thuận. Cấm tụ tập, ban đêm cấm ra khỏi làng, người ngoài không được vào làng; nhà lý trưởng phải treo cờ tam tài, hàng tuần, hàng tháng hương lý phải báo cáo lên cấp trên tình hình địa phương. Chúng thẳng tay đàn áp dã man nhiều cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng. Nhiều cán bộ, đảng viên từ cơ sở đến huyện, tỉnh bị bắt. Các cơ sở, tổ chức đảng tan rã dần và rút vào hoạt động bí mật. Các đảng viên Chi bộ Vân Trình lần lượt bị bắt, đến tháng 5 năm 1931, chi bộ tan rã. Sau khi các tổ chức đảng bị địch khủng bố tan rã, phong trào cách mạng lắng dần vào giữa năm 1931 và đến cuối năm tạm ngừng các hoạt động.
   Phong trào cách mạng 1930 - 1931, đã để lại cho các chi bộ đảng những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong phương pháp tổ chức đấu tranh cách mạng. Ở Nghi Lộc, phong trào đấu tranh của nhân dân đã làm lung lay bộ máy thống trị của thực dân phong kiến tay sai ở nhiều địa phương. Một số hào lí bị trừng trị hoặc bị trấn áp đã làm cho bọn quan lại tay sai ở các làng xã rơi vào thế hoang mang, lúng túng trước sức mạnh của quần chúng. Đồng thời, khẳng định vai trò lãnh đạo và đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân lao động, củng cố và xây dựng được niềm tin, tập hợp nhân dân đoàn kết đi theo Đảng. Cũng qua phong trào 1930 - 1931, các tổ chức quần chúng được rèn luyện, thử thách, được giác ngộ cách mạng. Chi bộ đảng và tổ chức quần chúng trưởng thành có nhiều bài học, kinh nghiệm trong tổ chức quần chúng đấu tranh. Qua đó, rút ra những hạn chế cần khắc phục là: chưa tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia, sự phối hợp đấu tranh, phương pháp, nội dung chưa phù hợp, công tác bảo vệ tổ chức, cán bộ thiếu chặt chẽ gây nhiều tổn thất.
  1. Nhân dân tham gia các phong trào cách mạng giành chính quyền tháng Tám 1945
   Để đàn áp phong trào cách mạng, thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai đã thực hiện chính sách khủng bố trắng, gây cho Đảng ta nhiều tổn thất. Hầu hết các chi bộ đảng ở Nghi Lộc đều tan rã, phong trào cách mạng tạm lắng. Nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng tích cực bị địch bắt, nhiều người hi sinh trong các cuộc đấu tranh và trong nhà tù đế quốc. Phong trào cách mạng lắng xuống nhưng thực dân Pháp lại tăng cường thêm lực lượng, xây thêm đồn bốt, hệ thống bang tá, đoàn phu được củng cố. Khắp các làng xã, những điếm canh, vọng gác được dựng lên để kiểm soát việc đi lại, sinh hoạt của nhân dân. Đa số nông dân đang sống trong nạn đói do hạn hán mất mùa, lại chịu sự khủng bố, quấy nhiễu, hống hách của bọn hào lí nên đời sống vô cùng khó khăn.
Trước chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, những đảng viên không bị bắt buộc phải rút vào hoạt động bí mật để xây dựng lực lượng và chỉ đạo các phong trào quần chúng. Các tổ chức quần chúng vẫn hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, đoàn kết vượt qua khó khăn chờ thời cơ cách mạng mới. Những đảng viên bị địch bắt tù đày trong nhà lao đế quốc vẫn trung kiên, bất khuất, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng. Họ đã biến nhà tù thành trường học chính trị, văn hóa, tiêu biểu như đồng chí Bùi Khắc Thựu. Đến cuối năm 1932, đầu năm 1933, sau khi cho Bảo Đại “hồi loan” về nước để lập nội các mới, thực dân Pháp thực hiện một số cải cách, nới lỏng một số chính sách cai trị nhằm mị dân và trấn an dư luận. Nhiều cán bộ, đảng viên được ra tù và bắt liên lạc với các cơ sở cách mạng nhằm khôi phục lại tổ chức đảng. Các tài liệu của Đảng được ấn loát để tuyên truyền, cổ động quần chúng và đảng viên, khơi dậy phong trào cách mạng mới. Đầu 1933, Huyện ủy lâm thời được thành lập, nhiều chi bộ đảng của huyện được khôi phục và hoạt động trở lại. Các tổ chức quần chúng được củng cố, hoạt động dưới hình thức “Tổ tương trợ’ . Việc tuyên truyền, giác ngộ để quần chúng tích cực tham gia các phong trào được đẩy mạnh. Nhân dân các làng đã phát động phong trào giúp nhau vượt qua khó khăn trong cuộc sống do thiên tai và chính sách khủng bố của thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh với nhà Chung và địa chủ để đòi quyền canh tác trên các cánh đồng của Tam Đa, Hưng Vận, Yên Lãng liên tục được tổ chức.
Năm 1932, cuộc đấu tranh của nông dân địa phương với nhà Chung đã nổ ra để đòi quyền canh tác trên cánh đồng đập Cheo. Để đối phó với việc lấn đất vùng cận giới, nhân dân các làng và Yên Lãng trong một đêm đã đắp xong con đường giới hạn giữa đồng Nông và đập Tơ Vụ. Trong lúc việc tranh chấp đất giải quyết chưa  xong, nhà Chung đã tổ chức cho giáo dân ra cắm nêu tranh đất, nhân dân Yên Lãng cũng kéo ra đấu tranh quyết liệt.
Trong thời gian này, nhân dân thôn Tam Đa còn đấu tranh với nhà Chung Xã Đoài để giành cánh đồng Sác Bộng và sông Cạn. Nông dân các thôn Tam Đa, Yên Lãng đấu tranh với địa chủ lớn ở Diễn Châu giành lại cánh đồng Kênh.
Tháng 4.1935, Tỉnh ủy lâm thời Nghê An tổ chức Hội nghị đại biểu tại Diễn Châu để phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất và đề ra chủ trương tăng cường tuyên truyền các tài liệu, văn kiện Đại hội Đảng để huấn luyện cho các tổ chức đảng. Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An đã chắp nối với các cơ sở đảng, phối hợp hành động với Huyện ủy Nghi Lộc. Ngày 13.9.1936, Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An và Huyện ủy Nghi Lộc đã tổ chức Hội nghị tại làng Đông Chử (Nghi Trường) cử ra Ban Chấp hành thống nhất của Đảng bộ Nghệ An. Ngay sau đó, Huyện ủy Nghi Lộc tổ chức họp đại biểu các chi bộ để cử Ban Chấp hành Huyện ủy gồm 5 đồng chí; đồng chí Đặng Thọ Trị (Nghi Long) được cử làm Bí thư. Hội nghị đã thảo luận Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết của Tỉnh ủy, bàn chủ trương chuyển dần sang đấu tranh cách mạng mới trên cơ sở củng cố các tổ chức đảng và quần chúng đấu tranh dưới hình thức, phương pháp phù hợp với tình hình mới. Sau phong trào cách mạng 1930 - 1931, Chi bộ Vân Trình chịu tổn thất lớn do chính sách khủng bố của thực dân Pháp; nhiều đồng chí đảng viên của chi bộ bị địch bắt cầm tù, một số đồng chí hi sinh, số còn lại sinh hoạt ghép với các chi bộ khác. Đến tháng 5.1931 thì tan rã. Bước sang thời kỳ phục hồi tổ chức đảng, mặc dù Chi bộ Vân Trình chưa có điều kiện thành lập trở lại nhưng một số đồng chí đảng viên vẫn tiếp tục làm nòng cốt cho các hoạt động tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng các tổ chức quần chúng, vận động nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng.
    Tháng 6 năm 1936, sau khi Mặt trận Bình dân Pháp thắng cử, Chính phủ cánh tả gồm liên minh Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp nắm chính quyền đã thực hiện nhiều chủ trương tiến bộ, nhân đạo như thả tù chính trị, nới rộng tự do dân chủ... ở các nước thuộc địa. Tại Đông Dương, Chính phủ Pháp cử đặc phái viên sang điều tra tình hình kinh tế, xã hội. Xác định đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng nước ta, Trung ương Đảng quyết định thay đổi hình thức tổ chức phương pháp đấu tranh: từ bí mật chuyển sang công khai hợp pháp và nửa hợp pháp. Từ đó, một phong trào cách mạng quần chúng do Đảng ta lãnh đạo đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, tự do, cơm áo, hòa bình diễn ra sôi nổi. Nhiều làng, xã ở Nghi Lộc nhất là các làng, xã đã có tổ chức đảng và có các phường hội tổ chức làm đơn, lấy chữ ký của nhân dân gửi phái đoàn điều tra của Chính phủ Pháp để yêu sách: đòi tự do, dân chủ. Mặc dù chưa có tổ chức đảng, các tổ chức phường hội tương tế, ái hữu chưa được thành lập nhưng do phong trào cách mạng của nhân dân trong toàn huyện lên cao và ảnh hưởng của báo chí, một số chính trị phạm và thanh niên, trí thức yêu nước ở các làng trong tổng Vân Trình đã tổ chức lấy chữ kí của nhân dân đòi dân quyền tập trung vào các nội dung: tự do hội họp, miễn giảm sưu thuế, đại xá chính trị phạm, thi hành mọi quyền tự do dân chủ.
Tiêu biểu trong phong trào đấu tranh cách mạng ở Nghi Hưng lúc này là hoạt động của ông Bùi Khắc Thựu ở làng Tam Đa. Được giác ngộ cách mạng, ông tham gia tuyên truyền sách báo của Đảng tại hiệu sách “Hồng Lam thư quán” ở Vinh. Sau đó, ông về quê dạy học, truyền bá chữ Quốc ngữ và đề xướng phong trào cải cách nông thôn, tuyên truyền đường lối cách mạng. Ông mở lớp dạy chữ Quốc ngữ ở đình làng Tam Đa với câu đối nêu chủ đề mở mang dân trí: “Dạy theo phép nước khảo chuông Quốc ngữ tỉnh mê hồn”. Ông tuyên truyền trong học sinh về chủ nghĩa Mác-Lênin, Cách mạng tháng Mười Nga. Lớp học của ông thu hút thanh niên trong làng và cả  thanh niên các thôn lân cận như Yên Lãng, Hưng Vận, Nhất Tộc.
Ngoài việc dạy học, ông còn vận động lập hội tương tế, ái hữu, chống phụ thu lạm bổ, đòi giảm sưu, giảm thuế, đưa người có cảm tình với nhân dân lao động vào các chức dịch như: ông Hoàng Văn Toán thay ông Đậu Sĩ Thương làm lí trưởng thôn Tam Đa; rải truyền đơn, dùng pin đèn chiếu cảnh chết chóc do chiến tranh ở Châu Âu để tuyên truyền chống phát xít, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ đường lối cách mạng của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc). Bùi Khắc Thựu là người đứng ra lập Hội truyền bá chữ Quốc ngữ tại địa phương. Sau một thời gian ngắn, Hội của ông đã phát triển rộng rãi trong toàn xã, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Mục đích của Hội là kêu gọi đoàn kết tương ái giúp nhau trong hoạn nạn, ma chay, cưới hỏi. Tháng 6.1941, Bùi Khắc Thựu bị bắt ở quê vợ tại làng Trung Hòa. Thực dân Pháp đã đem ông về nhà lao Vinh tra tấn dã man. Ông hi sinh ngày 13.11.1941.
    Nhằm xoa dịu tình hình đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp chủ trương cải cách mở rộng dân chủ. Chúng cho nhân dân ta được tham gia bầu cử viện dân biểu, lí trưởng, Hội đồng tộc biểu... Đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân loại bỏ những tên hào lý chống cách mạng và đưa người của Đảng vào tham gia tranh cử. Nhân dân một số làng thuộc tổng Vân Trình cũng đưa người của nhân dân ra tranh cử và đã giành thắng lợi. Phong trào cách mạng quần chúng phát triển mạnh mẽ, các phường hội được thành lập khắp các làng, xã. Các làng, xã tổ chức xây dựng các phường hiếu nghĩa, phường cày, phường gặt lúa. Hoạt động của phường, hội là giúp nhau trong sinh hoạt, sản xuất, đấu tranh chống áp bức của địa chủ, cường hào. Các hoạt động đã kịp thời cổ vũ, động viên và khơi dậy nhiệt tình cách mạng đồng thời biểu dương sức mạnh của lực lượng cách mạng quần chúng. Thông qua hoạt động và các hình thức đấu tranh của các phường, hội mà phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ của nhân dân đã góp phần tuyên truyền, giáo dục quần chúng về ý thức giai cấp, tinh thần cách mạng, dựa vào sức mạnh đoàn kết quần chúng để đấu tranh chống hào lý tham nhũng, ức hiếp nhân dân, đòi giảm nợ, tô, tức... chống các tập tục lạc hậu trong nông thôn.
   Tháng 5.1938, Đại hội đại biểu huyện Nghi Lộc họp tại làng Đông Chử (Nghi Trường) kiểm điểm rút kinh nghiệm và bàn chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào cách mạng quần chúng. Các phường, hội hoạt động bán công khai thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Số thanh niên tiên tiến, các chính trị phạm và một số trí thức Tam Đa (Nghi Hưng), Mỹ Lâm (Nghi Kiều) tiếp  tục vận động nhân dân tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi như: thể thao, văn nghệ, đọc sách, báo, học chữ Quốc ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn… Mặc dù chưa có tổ chức đảng nhưng nhân dân khắp các làng, xã vẫn tích cực tham gia các phong trào chống nạn thất học, nâng cao dân trí. Khác với cách thức tổ chức các lớp học thời kỳ 1930 - 1931, các lớp học được tổ chức tập trung thành lớp đông người. Để phục vụ cho lớp học, nhân dân đã vận động lấy tiền từ công qũy của làng hoặc các phường, hội tham gia đóng góp để mua sắm các phương tiện và nuôi thầy dạy học. Cùng với học chữ là học chính trị, tuyên truyền, giác ngộ cách mạng. Thầy giáo chủ yếu là những cán bộ, đảng viên, những thanh niên trí thức tiên tiến tập trung bồi dưỡng, giáo dục cho thanh niên để xây dựng lực lượng nòng cốt cho các phong trào cách mạng.
Tháng 7.1938, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, Chiến tranh thế giới thứ hai có nguy cơ bùng nổ. Giữa lúc Mặt trận dân chủ Đông Dương phát triển mạnh mẽ thì tại nước Pháp, Mặt trận Bình dân bị lật đổ, chính phủ mới lên nắm quyền chủ trương thực hiện chính sách phát xít tại các nước thuộc địa. Ở Đông Dương, sau thời kỳ thực hiện các cải cách dân chủ, thực dân Pháp bắt đầu xiết chặt quyền tự do dân chủ của nhân dân, tiến hành khủng bố phong trào cách mạng, phong trào dân sinh, dân chủ. Ngày 28.9.1939, toàn quyền Đông Dương ra lệnh giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, tương tế, ái hữu. Ngày 5.10.1939, Chính phủ Nam triều ra đạo dụ cấm hội họp, cấm tuyên truyền cộng sản và tịch thu sách báo tiến bộ. Thực dân Pháp và Chính phủ Nam triều thẳng tay đàn áp phong trào các đồn bốt, điếm canh.
Cuộc vận động dân chủ do Đảng ta phát động đến cuối năm 1939 thì chấm dứt bởi sự kiểm soát khủng bố của địch.
  1. Xây dựng lực lượng nổi dậy giành chính quyền. Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới 2 bùng nổ bằng sự kiện Đức tấn công Ba Lan. Chính phủ Anh - Pháp tuyên chiến với Đức. Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện chính sách phát xít, giải tán Đảng Cộng sản, các tổ chức dân chủ trong nước và ở các thuộc địa. Tháng 11.1939, Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị và nhận định tình hình, đề ra nhiệm vụ chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp với tình hình mới. Trung ương Đảng xác định: mục tiêu của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ trước đó. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, tháng 01.1940, Xứ ủy Trung Kì cử người về khôi phục lại tổ chức đảng ở Nghệ An. Đồng chí Trần Mạnh Qùy được phân công chỉ đạo huyện Nghi Lộc và thành phố Vinh. Giữa năm 1940, Huyện ủy Nghi Lộc được thành lập và chỉ đạo khôi phục được một số cơ sở đảng trong huyện. Các cơ sở tập trung củng cố hội tương tế, ái hữu, chọn lựa những thanh niên, quần chúng tích cực để lập ra Đoàn thanh niên Phản đế làm lực lượng nòng cốt chuẩn bị cho phong trào đấu tranh cách mạng trong chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng.
   Tháng 6.1940, Pháp đầu hàng Đức, Nhật tấn công Đông Dương. Ở Việt Nam, phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra khắp cả nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra: khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9.1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11.1940), khởi nghĩa binh lính đồn Rạng (Thanh Chương) đồn Đô Lương (1.1941). Trước tình hình phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng lên cao, thực dân Pháp tăng cường chính sách khủng bố. Nhiều tổ chức đảng bị tan rã, nhiều cán bộ, đảng viên bị địch bắt: đầu năm 1941, Huyện ủy Nghi Lộc được củng cố gồm 5 đồng chí thì đến tháng 5 năm 1941, có 4 đồng chí bị địch bắt. Chính sách khủng bố của thực dân Pháp đã gây cho Đảng ta nhiều tổn thất. Nhiều cán bộ lãnh đạo đảng viên từ Trung ương đến địa phương bị sa vào tay giặc. Ở Nghi Lộc có hơn 100 người bị địch bắt, trong đó có đồng chí Bùi Khắc Thựu - người làng Tam Đa. Hoạt động của Đảng ở các cơ sở bị gián đoạn. Những đảng viên không bị bắt vẫn kiên cường bám sát quần chúng chờ bắt mối liên lạc với tổ chức đảng chuẩn bị cho phong trào cách mạng mới.
   Sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, phát xít Nhật tràn vào Việt Nam. Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Phát xít Nhật dùng bộ máy chính quyền tay sai của Pháp làm công cụ đàn áp phong trào cách mạng, vơ vét, bóc lột sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh. Cuối năm 1944, Nhật đưa 10.000 quân vào Nghệ An xây dựng tuyến phòng thủ dọc biển Cửa Lò, Cửa Hội, sân bay Vinh... Chúng giành độc quyền trưng mua hết thóc gạo, lạc, vừng... bắt dân nộp sưu thuế, đi xây dựng các công trình quân sự, bắt dân chuyển nhà cửa, chặt phá cây cối, hoa màu để xây dựng công trình quân sự, doanh trại, chuồng ngựa... Nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ 3 tròng”: phải chịu sự bóc lột trăm đường của thực dân Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai. Năm 1945, nạn đói xảy ra làm trên 2 triệu người chết, huyện Nghi Lộc hơn 16 ngàn người bị chết. Nhân dân trong các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận và người các vùng khác đến tha hương xin ăn có hơn 100 người bị chết, nhiều gia đình tha hương, li tán. Nạn đói lịch sử này cùng với chính sách bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp, phát xít Nhật, tay sai phong kiến càng nung nấu thêm ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Bộ máy chính quyền của Pháp, tay sai phong kiến Nam triều hoang mang, rối loạn. Nhân tình hình đó, tù chính trị ở nhà lao Vinh cùng với tù chính trị các nơi đấu tranh với bọn cai ngục đòi quyền tự do. Trong phong trào đấu tranh của tù chính trị, nhiều đồng chí được trả tự do, trở về móc nối với các tổ chức tiếp tục đấu tranh. Đây là lực lượng quan trọng cho phong trào kháng Nhật cứu nước. Nghi Lộc có 18 người được thoát ngục về địa phương tích cực xây dựng lực lượng chuẩn bị giành chính quyền.
    Ngày 25.3.1945, những cán bộ, đảng viên tích cực trên địa bàn huyện đã liên lạc với nhau tổ chức Hội nghị tại làng Đông Chử, Nghi Trường bàn kế hoạch xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19.5.1945, tại thị xã Vinh, tổ chức Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh được thành lập và phân công cán bộ đi xây dựng các cấp bộ Việt Minh ở cơ sở. Đầu tháng 6 năm 1945, Ban vận động Việt Minh Nghi Lộc được thành lập tại nhà thờ họ Nguyễn Trương (Nghi Xá), thảo luận và bàn kế hoạch thực hiện chương trình cứu nước. Sau khi Việt Minh huyện được thành lập, Ban vận động Việt Minh các tổng được hình thành; tổng Vân Trình gồm các ông: Nguyễn Văn Cù, Hoàng Văn Khôi, Đỗ Văn Kính, Bùi Khang Đức, do đồng chí Nguyễn Văn Cù phụ trách. Các Ban vận động Việt Minh từ huyện, tổng đến cơ sở hoạt động tích cực, sôi nổi khắp các làng xã.
Đồng chí Nguyễn Thức Huy, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh huyện về làng Tam Đa tổ chức Mặt trận Việt Minh, gồm: ông Bùi Khắc Quỳnh làm Chủ nhiệm; ông Vương Văn Cư (Quỳnh) làm Phó Chủ nhiệm; các ủy viên: bà Nguyễn Thị Xuân, ông Lê Văn Ngân, ông Hoàng Văn Cận. Đồng chí Hoàng Khắc Hanh và Lê Huy Điệp do huyện cử về làng Yên Lãng tổ chức Mặt trận Việt Minh gồm các ông: Bùi Tiên Giao làm Chủ nhiệm; Trần Hữu Bút làm Phó Chủ nhiệm; các ủy viên: ông Trần Hữu Thoại, ông Bùi Văn Ới, ông Trần Hữu Liệp. Mặt trận Việt Minh làng Hưng Vận có: ông Bùi Văn Tài làm Chủ nhiệm, ông Bùi Văn Tớn làm Phó Chủ nhiệm và các ủy viên gồm các ông: Phạm Văn Lan, Bùi Văn Lênh, Phạm Văn Qùy.
      Sau khi hất cẳng Pháp, Nhật lập ra chính phủ thân Nhật. Thực hiện âm mưu chính trị thâm độc “Đại Đông Á”, chúng tố cáo thực dân Pháp với chiêu bài “ái quốc, ái quần” nhằm lôi kéo thanh niên, quần chúng, gây mơ hồ rối loạn trong nhân dân, tranh chấp quần chúng với Việt Minh. Chúng lập tổ chức “Thanh niên tiền tuyến” (luật sư Phan Anh đang làm Bộ trưởng Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim). Thanh niên Phan Anh tranh chấp quần chúng với Việt Minh từ tỉnh đến làng xã. Các cấp bộ Việt Minh đã chủ trương lợi dụng tổ chức này đưa cán bộ Việt Minh, thanh niên tích cực, giác ngộ cách mạng có uy tín ra tranh cử chánh, phó thủ lĩnh thanh niên Phan Anh nhằm tránh sự khủng bố của địch, hạn chế hoạt động tay sai thân Nhật, đồng thời tập hợp thanh niên rồi chuyển dần thành Thanh niên Cứu quốc. Ở Nghi Lộc từ huyện đến tổng, làng, xã hầu hết đều có người của Việt Minh ra tranh cử. Tổ chức Thanh niên ở tổng Vân Trình do ông Bùi Khang Đức làm Thủ lĩnh, ông Nguyễn Khắc Đàm làm Phó thủ lĩnh. Làng Tam Đa do ông Lê Phạm Trí làm Thủ lĩnh, ông Đậu Sĩ Thức làm Phó thủ lĩnh. Làng Yên Lãng do Trần Hữu Thoại làm Thủ lĩnh, ông Bùi Văn Ới làm Phó thủ lĩnh. Làng Hưng Vận do ông Bùi Văn Luật làm Thủ lĩnh, ông Phạm Văn Quỳ làm Phó thủ lĩnh. Để tập hợp được lực lượng quần chúng, các tổ chức thanh niên đã tham gia cuộc mít tinh toàn tổng Vân Trình ở chợ Cồn Ruồng (Tụy Anh). Tháng 6.1945, thanh niên Tam Đa được lệnh báo động tập hợp kéo lên Tỉnh lộ 534 phục kích đoạn từ rú Học đến Tụy Anh để bắt một tên phản động từ Xã Đoài trốn ra.
  Ngày 13.8.1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 15.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa Nghệ Tĩnh phát lệnh khởi nghĩa. Trong không khí toàn dân chờ đón Lệnh tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa huyện thì ở các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận đã khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tổng và các làng, đúng 7 giờ sáng ngày 18.8.1945, nhân dân các làng tập trung tại đình làng Yên Lãng hô vang các khẩu hiệu như “Việt Nam độc lập”, “Việt Minh muôn năm”, “Đánh đổ Chính phủ bù nhìn, lập Chính phủ nhân dân cách mạng”…Trước lực lượng cách mạng hùng mạnh của quần chúng, hệ thống hào lý các làng xã hoàn toàn bị tê liệt. Đồng chí Bùi Khang Đức thay mặt Ban vận động Việt Minh tổng Vân Trình tuyên bố lí do cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng. Đồng chí Trần Văn Minh thay mặt Việt Minh huyện Nghi Lộc nói rõ mục đích, ý nghĩa cuộc mít tinh là giành chính quyền về tay nhân dân. Đồng chí Trần Hữu Bút thay mặt Ban Việt Minh làng Yên Lãng giới thiệu Ủy ban nhân dân cách mạng làng (do Mặt trận Việt Minh giới thiệu) ra mắt và nhận nhiệm vụ trước nhân dân gồm:
Ông  Trần Hữu Thoại: Chủ tịch
 Ông  Nguyễn Viết Xấng:   Phó Chủ tịch
 Ông  Bùi Văn Ới:  Ủy viên tài chính
Ông Trần Hữu Liệp: Ủy viên quân sự, kiêm công an
 Ông Trần Hữu Tuồn:  Ủy viên tuyên truyền
Chính quyền cũ phải nộp toàn bộ sổ sách, tài liệu, ngân sách cho Ủy ban nhân dân cách mạng làng. Sau khi lập chính quyền cách mạng ở làng Yên Lãng, Ban Việt Minh tổng giao trách nhiệm cho các Ban Việt Minh các làng Tam Đa, Hưng Vận tổ chức mít tinh, biểu tình giành chính quyền cách mạng một cách nhanh chóng và giới thiệu chính quyền mới:
Làng Tam Đa gồm:
Ông  Lê Xuân Độ:   Chủ tịch
 Ông  Bùi Khắc Tứu: Phó Chủ tịch
Ông Bùi Khắc Quỳnh: Ủy viên quân sự kiêm công an
Ông Hoàng Văn Bang: Ủy viên tài chính
Ông  Trần Hữu Bút:   Ủy viên tuyên truyền
Làng Hưng Vận gồm:
Ông  Bùi Văn Lênh: Chủ tịch Ông
  Bùi Văn Hường:    Phó Chủ tịch
Ông Phạm Văn Lan:   Ủy viên quân sự kiêm  công an
 Ông  Phạm Văn Quỳ: Ủy viên tuyên truyền
Ông  Bùi Văn Liễu:   Ủy viên tài chính
  Ngoài bộ máy chính quyền, Mặt trận Việt Minh các thôn còn lập các đoàn thể quần chúng như: Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc. Riêng đội thanh niên trước đây đổi thành Đội Tự vệ do ủy viên quân sự của chính quyền mới chỉ huy. Ngày 25.8.1945, Việt Minh huyện và Việt Minh các tổng đã vận động quần chúng nhân dân họp mít tinh tại chợ Quán (Nghi Hoa), cạnh huyện đường để nghe Việt Minh diễn thuyết. Nhân dân Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận cùng nhân dân các xã trong huyện họp mít tinh rồi kéo về Tòa Giám mục đấu tranh đòi trao quyền quản lí cho người Việt Nam giành thắng lợi. Trong đêm 25.8, tự vệ và nhân dân khắp các làng, xã chuẩn bị vũ khí, băng cờ, khẩu hiệu cho việc giành chính quyền. Sáng ngày 26.8.1945, nhân dân các làng Tam Đa, Hưng Vận, Yên Lãng cùng nhân dân các xã xuống đường, tập trung mít tinh tại rú Bứa - Nghi Hoa và kéo lên huyện đường giành chính quyền. Một Ủy ban lâm thời huyện được giới thiệu tại cuộc mít tinh.
Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận là các làng khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất trong huyện. Khởi  nghĩa giành chính quyền thắng lợi của nhân dân Nghi Hưng là kết quả của quá trình đấu tranh kiên cường, lâu dài, đầy gian khổ, hi sinh qua các cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo; là thắng lợi của khối đoàn kết toàn dân, của kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và nghệ thuật nắm bắt, chớp thời cơ giành chính quyền về tay nhân dân. Nhân dân Nghi Hưng đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước, phá tan xiềng xích nô lệ, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ đất nước, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG III
NGHI HƯNG XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN, THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)
 
    1. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính thể công - nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã gặp phải muôn vàn khó khăn: phải đối phó với nạn thù trong, giặc ngoài, nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói đầu năm 1945 để lại hậu quả hết sức nặng nề. Cùng một lúc, nhân dân cả nước phải chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Để giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính, ngày 7.9.1945, Chính phủ mở cuộc vận động xây dựng “Qũy độc lập” thông qua “Tuần lễ vàng”. Là xã miền núi, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhưng với tinh thần yêu nước, hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, nhiều gia đình ở các làng đã mang đồ dùng quý, khuyên bạc góp vào “Qũy độc lập”. Ngày 25.11.1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”. Thực hiện chỉ thị của Trung ương, một phong trào cách mạng nhằm củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội gián, cải thiện đời sống nhân dân diễn ra sôi nổi khắp các làng, xã.
Tháng 9.1945, đồng chí Nguyễn Thức Huy, Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện, được phân công về chỉ đạo xây dựng cơ sở đảng ở làng Tam Đa. Các đồng chí Bùi Khang Đức, Bùi Khắc Quỳnh và Nguyễn Thị Xuân được phân công tìm hiểu những người tích cực tham gia phong trào để bồi dưỡng phát triển đảng. Ngày 20.2.1946, Huyện ủy phân công đồng chí Nguyễn Thức Huy về tổ chức lễ kết nạp cho 5 đồng chí và thành lập chi bộ đảng gồm có 8 đảng viên. Chi bộ đã tổ chức phiên họp đầu tiên để phân công trách nhiệm. Cụ thể:
Đồng chí Vương Văn Cư - Bí thư, phụ trách chung
Đồng chí Bùi Khắc Quỳnh - Phó Bí thư, phụ trách chính quyền
Đồng chí Lê Văn Ngân - Phụ trách đảng vụ
Đồng chí Hoàng Văn Cận - Phụ trách dân vận và nông dân
Đồng chí Nguyễn Thị Xuân - Phụ trách phụ nữ và tài chính đảng
Đồng chí Bùi Khang Đức - phụ trách Mặt trận Việt Minh.
Đồng chí Hoàng Văn Vận, Bùi Hữu Hòa, Hoàng Văn Toản - phụ trách các làng.
Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trước mắt. Đây là thời gian Đảng ta tuyên bố “tự giải tán” nên chi bộ có mật danh là S; các đồng chí đảng viên trong chi bộ đều có bí danh riêng. Chi bộ đã thống nhất nhiệm vụ cách mạng trong thời điểm này là: lãnh đạo, chỉ đạo tốt việc sáp nhập các thôn thành xã lớn và tổ chức tốt bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Các đoàn thể quần chúng lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, chống nạn đói và thanh toán nạn mù chữ. Hội nghị chi bộ đã phân công các đồng chí đảng viên phụ trách các địa bàn: đồng chí Bùi Khắc Quỳnh phụ trách thôn Xuân Mỹ, đồng chí Vương Văn Cư và Nguyễn Thị Xuân phụ trách làng Tam Đa và Thạch Khê, đồng chí Lê Xuân Ngân phụ trách làng Hưng Vận, đồng chí Bùi Khang Đức phụ trách thôn Nhất Tộc. Các đảng viên khi về thôn, dựa vào tổ chức mặt trận và thanh niên tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng khối đoàn kết lương - giáo, đoàn kết giữa các thôn, khắc phục tư tưởng cục bộ, bản vị.
Để chống đói cho dân, Đảng, Chính phủ cách mạng thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp trong nông thôn như: xóa nợ công, miễn thuế, thu hồi công qũy để cấp cho hộ nghèo đói, thực hiện hiến ruộng để chia cho dân... Các phong trào tăng gia sản xuất, tiết kiệm, khai hoang sản xuất, không dùng lương thực nấu rượu, thực hiện “hũ gạo tiết kiệm” ở từng gia đình được các tầng lớp nhân dân Nghi Hưng tích cực hưởng ứng nên trong một thời gian ngắn, đời sống nhân dân đã ổn định.
   Chính sách cai trị ngu dân của thực dân Pháp để lại hậu quả vô cùng nặng nề. Suốt những năm dài sống trong thân phận nô lệ, nhân dân ta hầu hết đều mù chữ. Cách mạng thành công, chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Chính phủ quyết tâm diệt giặc dốt. Đảng ta xác định: nâng cao dân trí làm cho mỗi người dân biết chữ, có tri thức để xây dựng đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng cấp thiết. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nha bình dân học vụ được thành lập và phát động phong trào toàn dân tham gia bình dân học vụ trong cả nước. Hệ thống trường học được sắp xếp và mở rộng. Ban vận động bình dân học vụ được thành lập từ xã đến các thôn xóm. Công tác tuyên truyền, cổ động cho học chữ Quốc ngữ được tổ chức rộng rãi dưới mọi hình thức, phương tiện. Ngoài việc vừa tích cực vận động ý thức tự giác đi học của mọi người vừa dùng biện pháp bắt buộc. Người đi chợ đến cổng phải đọc, viết được một số chữ mới cho vào chợ. Đảng viên sau ba tháng tham gia học, nếu không biết chữ sẽ bị kỉ luật. Với tinh thần “người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít”, tất cả mọi người đều phải tham gia học tập. Khắp các thôn, xóm diễn ra phong trào nhà nhà đi học, người người đi học. Ban đêm, từng tổ 5 đến 7 người vây quanh đĩa đèn dầu hạt bưởi để tập đọc, tập viết. Tất cả các nhà thờ, đình, đền đều dùng làm lớp học. Phong trào bình dân học vụ được duy trì liên tục trong nhiều năm sau Cách mạng tháng Tám 1945. Khắp các thôn làng ngõ xóm ở đâu cũng thi đua thực hiện phong trào “bình dân học vụ”. Việc học được mỗi người tự giác tích cực, học mọi lúc mọi nơi, tranh thủ mọi thời gian lúc đi chợ, đi làm, chăn trâu bò. Những người đã thanh toán nạn mù chữ được chuyển sang lớp “Bổ túc bình dân học vụ”. Nhờ có nhiều hình thức và cơ sở dạy chữ cùng với tinh thần hăng hái tham gia học tập nên chỉ sau một thời gian ngắn, đa số nhân dân thoát nạn mù chữ. Cùng với việc học chữ là phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới. Những hủ tục: cờ bạc, rượu chè, mê tín bói toán… được bãi bỏ. Việc tế lễ, ma chay, cưới hỏi được đổi mới: giảm những thủ tục phiền hà, tốn kém tiền bạc. Công tác chăm lo sức khỏe nhân dân được quan tâm, phong trào rèn luyện sức khỏe, vệ sinh đường làng ngõ xóm được tổ chức thường xuyên đảm bảo phòng chống dịch bệnh. Công tác thông tin cổ động, làm chòi phát thanh, viết bảng tin, kẻ vẽ khẩu hiệu... tuyên truyền xây dựng đời sống mới đã tạo ra không khí vui tươi, lành mạnh, đoàn kết khắp các vùng nông thôn Nghi Hưng.
Các phong trào do Đảng ta phát động ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công được nhân dân tham gia tích cực, tạo sự chuyển biến lớn trong xã hội, có ý nghĩa to lớn động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới, vững tin vào chế độ mới.
Nhiệm vụ trung tâm để đưa cuộc kháng chiến kiến quốc đến thắng lợi là củng cố chính quyền nhân dân vững mạnh. Ngày 6.1.1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tổ chức. Toàn thể nhân dân với ý thức và trách nhiệm thiêng liêng trước quyền lợi và vận mệnh đất nước đã hăng hái đến điểm bầu cử để thực hiện nghĩa vụ công dân của nước Việt Nam độc lập. Trong niềm vui chung của cả nước, nhân dân các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận nô nức trong không khí cờ hoa, trống hội tham gia bầu cử. Với danh dự, trách nhiệm, ý thức cao, chỉ trong buổi sáng tổng Vân Trình đã cơ bản hoàn thành việc bỏ phiếu bầu Quốc hội. Ngày 24.2.1946, tỉnh Nghệ An tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, nhân dân lại hăng hái tham gia bầu cử với niềm tin tưởng vào chính quyền của dân.
  Tháng 5.1946, thực hiện Sắc lệnh của Chính phủ và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, Huyện ủy đã lãnh đạo việc tổ chức sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong huyện theo hai cấp: huyện và xã. Nghi Lộc từ 79 đơn vị hành chính cơ sở sáp nhập lại thành 24 đơn vị. Lúc này, xã Xuân Kiều thuộc tổng Hải Đô huyện Hưng Nguyên với xã Mỹ Lâm và Mậu Lâm nhập thành xã Lâm Kiều thuộc Nghi Lộc. Các làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Mỹ nhập thành xã Thần Sơn (lấy bí danh của nhà chí sĩ yêu nước Ngô Quảng người thôn Tam Đa). Ủy ban hành chính lâm thời xã được thành lập gồm:
 Đồng chí Bùi Tiên Giao, làng Yên Lãng được phân công giữ chức vụ Chủ tịch xã
Đồng chí  Đặng Xuân Tựu, làng Xuân Mỹ - Phó Chủ tịch
Đồng chí Bùi Khắc Quỳnh, làng Tam Đa - Ủy viên thư kí
Sau bầu cử Hội đồng nhân dân xã, tháng 6 năm 1946, Hội đồng nhân dân xã đã bầu Ủy ban hành chính(1) xã gồm:
Ông Lê Xuân Giáo (làng Tam Đa) - Chủ tịch Ủy ban hành chính
Ông Võ Đình Cha (thôn Xuân Mỹ) - Phó Chủ tịch
Ông Nguyễn Khắc Đàm (thôn Nhất Tộc) - Ủy  viên văn hóa
Ông Đậu Văn Tương (làng Tam Đa) - Ủy viên tài chính
Ông Bùi Khắc Quỳnh - Ủy viên thư kí kiêm chính trị viên xã đội
 (1) Từ 19.8.1945 đến 28.8.1945 gọi là UB lâm thời, từ 28.8.1945 gọi UB- NDCM sau đổi UBND, từ 26.1.1946 gọi UBHC, tháng 10.1947 là UB kháng chiến hành chính, tháng 8.1954 là UB hành chính, tháng 7.1976 đến nay là UBND
Trụ sở Ủy ban hành chính xã đặt tại đền thờ Trần Thái Bảo (làng Thạch Khê). Dựa theo công báo của Chính phủ, Hội đồng nhân dân xã đã xây dựng quy chế làm việc của Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính. Song song với thành lập Ủy ban hành chính, Ủy ban phòng thủ xã cũng được thành lập. Ông Phạm Văn Lan được bầu làm Chủ tịch, ông Nguyễn Hữu Lĩnh làm Phó Chủ tịch.
Tháng 6 năm 1946, đồng chí Vương Văn Cư chuyển công tác lên xã Mậu Lâm, chi bộ bầu đồng chí Bùi Khắc Quỳnh làm Bí thư. Đến tháng 11 năm 1947, số đảng viên của chi bộ là 20 đồng chí (trong đó có 4 nữ). Trước sự lớn mạnh không ngừng của chi bộ và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, chi bộ đã thống nhất thành lập các tổ đảng tại các thôn. Chi bộ và các tổ đảng đã tập trung lãnh đạo, củng cố các tổ chức quần chúng và vận động nhân dân tích cực sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, tăng cường xây dựng lực lượng, bảo vệ chính quyền, tham gia kháng chiến. Nhiệm vụ trung tâm của chi bộ lúc này là phải củng cố công tác chính quyền.
Ngày 10.11.1947, chi bộ tổ chức Đại hội và đề ra nhiệm vụ công tác: quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thanh toán nạn mù chữ, huy động sức người, sức của phục vụ cho tiền tuyến. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành chi bộ gồm 5 đồng chí:
Đồng chí Bùi Khắc Quỳnh được bầu giữ chức vụ Bí thư.
 Đồng chí Bùi Văn Ới được bầu giữ chức Phó Bí thư phụ trách đảng vụ.
Đồng chí Hoàng Văn Vận, phụ trách nông vận, dân vận.
 Chi bộ chia làm ba tổ đảng: làng Tam Đa do đồng chí Đậu Sĩ Xang làm tổ trưởng. Làng Yên Lãng và Hưng Vận do đồng chí Bùi Văn Tài làm tổ trưởng. Các thôn còn lại tổ trưởng là đồng chí Trần Bá Viên.
Nhiệm vụ của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể lúc này hết sức nặng nề và khẩn trương vừa xây dựng chính quyền vững mạnh, lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia kháng chiến, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đời sống văn hóa, tích cực chi viện cho tiền tuyến, động viên thanh niên tham gia quân đội, chuẩn bị tốt mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước.

 
    1. THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
Không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta, ngày 23.9.1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh nổ  súng đánh chiếm Sài Gòn. Nhân dân Nam bộ lại phải tiếp tục đứng lên kháng chiến. Phong trào “Nam tiến” diệt giặc lại bùng lên khắp nơi, tinh thần bất khuất, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ của nhân dân ta được khơi dậy trong mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều thanh niên Nghi Hưng đã hăng hái lên đường nhập ngũ theo đoàn quân “Nam tiến”.
   Cuối năm 1946, khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng không còn, ngày 19.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Khắp nơi trong cả nước, Ủy ban kháng chiến được thành lập. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân thực hiện “tiêu thổ để kháng chiến”, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Nghi Lộc, các chi bộ cơ sở đã lãnh đạo nhân dân huy động mọi vật lực, tài lực phục vụ cho cuộc kháng chiến. Huyện đã xây dựng lực lượng dân quân thường trực, mỗi làng có một trung đội dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu; các tuyến phòng thủ được khẩn trương xây dựng; nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến trở thành nhiệm vụ cấp thiết được nhân dân tích cực thực hiện. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ, nhân dân Nghi Hưng cùng nhân dân các làng, lực lượng dân quân tự vệ, du kích hàng ngàn người tích cực tham gia phá đồn Thương Chánh của Pháp ở Ngọc Bội và Thượng Thị, nhà nghỉ mát Cửa Lò rồi ào ạt kéo về sân bay Vinh, trục đường sắt, trục giao thông Vinh - Cửa Hội - Cửa Lò, Quán Bánh - Cửa Lò để đập phá, dựng các chướng ngại vật, đào hào nhằm cản trở sự chuyển quân của địch. Thực hiện chủ trương rào làng kháng chiến, nhân dân tích cực xây dựng công sự chiến đấu, rào làng, cắm chông, tổ chức tuần tra, lập các vọng gác (tổ chức trực 24/24 giờ), bố phòng sẵn sàng đánh địch tấn công. Nhân dân đã đóng góp mọi thứ vật liệu để phục vụ kháng chiến. Mỗi làng thành lập bộ phận hướng dẫn nhân dân tản cư khi có nguy cơ bị địch đánh chiếm. Để đề phòng địch đổ bộ bằng đường không, dân quân, du kích, các lực lượng tự vệ các làng của Nghi Hưng tập trung luyện tập tác chiến khi có tình huống xảy ra, đồng thời ban đêm tổ chức diễn tập tản cư nhân dân vào các khu vực an toàn trong núi.
Tháng 6.1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Thi đua ái quốc”. Sau lễ phát động và ký thi đua ở huyện, chi bộ đảng, chính quyền xã Thần Sơn đã tổ chức họp mở rộng để phát động phong trào thi đua giữa các tổ đảng, các đoàn thể, giữa các làng và đã tạo ra một không khí thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày 17.9.1948, Ban Canh nông huyện được thành lập. Ban chủ trương phát triển tổ chức xuống các làng, xã dưới dạng các tổ đổi công để giúp nhau trong sản xuất. Lực lượng tham gia kháng chiến được xây dựng: trong đó, dân quân, du kích là chủ lực thường xuyên được luyện tập. Đội du kích xã Thần Sơn đã tập trung tập luyện, thường xuyên tuần tra, đảm bảo an ninh thôn xóm. Các tổ, nhóm “ngũ gia liên báo” được xây dựng để kiểm soát, theo dõi người lạ mặt vào làng. Công tác phòng gian bảo mật được thực hiện triệt để với việc thực hiện 3 không: không biết, không nghe, không thấy khi có người lạ hỏi về những việc đang diễn ra trong làng xã.
Tháng 2.1949, Đại hội đại biểu huyện được tổ chức; xã Thần Sơn được huyện biểu dương có nhiều thành tích trong phong trào thi đua yêu nước. Sau khi Mặt trận Bình - Trị - Thiên bị vỡ, trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của cuộc kháng chiến, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính cho phù hợp với tình hình tác chiến đánh địch. Huyện Nghi Lộc từ 24 xã được sáp nhập lại thành 13 xã. Tháng 5.1947, xã Thần Sơn gồm các làng: Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Mỹ và xã Vạn Hòa gồm các thôn: Phương Tích, Hà Thôn, Mỹ Yên, Tụy Anh, Đồng Nghĩa lập thành xã Thần Lĩnh (lấy tên hiệu của hai nhà chí sĩ yêu nước Thần Sơn - Ngô Quảng người Tam Đa và Trương Văn Lĩnh người Phương Tích). Hội đồng nhân dân xã Thần Lĩnh đã bầu ra Ủy ban kháng chiến hành chính gồm:
Ông Phan Văn Lan: Chủ tịch
Ông Nguyễn Khắc Đàm (cụ Trạm): Phó Chủ tịch
 Ông Bùi Văn Phác: Xã đội trưởng
Ông Đậu Văn Tương: Ủy viên kinh tế - tài chính
 Ông Bùi Khắc Quỳnh: Ủy viên thư ký kiêm Chính trị viên xã đội
Ông Bùi Văn Ới: Ủy viên văn hóa - xã hội, Xã cũng đã thành lập các ban trong Ủy ban:
Ban quân sự gồm các ông: Bùi Văn Phác, Đậu Sĩ Thức; Ban trật tự gồm các ông: Lê Văn Ngân, Nguyễn Văn Bút, Vương Văn Nhàn;
Ban thông tin gồm các ông; Lê Xuân Phượng, Đặng Chí Thành;
Ban Bình dân học vụ do ông Nguyễn Văn Thiền phụ trách.
Ở các thôn đều bầu trưởng thôn, trật tự viên, cán bộ thông tin, lập tổ giáo viên bình dân học vụ, một phân hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc và một phân Đoàn Thanh niên.
Bên cạnh Mặt trận Việt Minh, để tăng cường khối đại đoàn kết các lực lượng kháng chiến, lúc này ở xã còn có Hội Liên Việt, gồm có các ông: Bùi Văn Tài làm Chủ nhiệm; Trần Hữu Bút làm Phó Chủ nhiệm; Lê Phạm Trí, Hoàng Văn Cận, Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Văn Diệu, Phạm Văn Minh.
Hội Nông dân cứu quốc gồm có: Hoàng Văn Cận làm Bí thư, Bùi Văn Chắt làm Phó Bí thư, Đậu Sĩ Xang làm Ủy viên Thường vụ
Đoàn Thanh niên cứu quốc gồm: Nguyễn Văn Diệu làm Bí thư, Bùi Tiên Chắt làm Phó Bí thư, Nguyễn Phú Đệ làm Ủy viên Thường vụ.
Về tổ chức đảng, Chi bộ xã Thần Sơn và xã Vạn Hòa sáp nhập để thành lập Chi bộ xã Thần Lĩnh. Ngày 16.5.1947, Đại hội chi bộ khóa 1 xã Thần Lĩnh khai mạc tại đình làng Tam Đa. Tổng số đảng viên tham dự gồm 127 đồng chí. Đại hội vinh dự được đón đồng chí Trần Khuông, Thường vụ Tỉnh ủy, về tham dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã quyết định những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp; lãnh đạo nhân dân đòi địa chủ giảm tô, giảm tức 20 - 25%. Tập trung công điền, công thổ chia cho nông dân không có hoặc ít ruộng để sản xuất, nộp một phần hoa lợi cho xã làm ngân sách địa phương. Phát động phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nếp sống văn minh, tăng cường công tác bình dân học vụ để thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân. Tăng cường công tác quốc phòng, nâng cao cảnh giác cách mạng, tích cực tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc và hành động phá hoại của bọn phản động. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, kết nạp đảng viên mới. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí.
 Đồng chí Đậu Văn Kỳ được bầu giữ chức vụ Bí thư, phụ trách đảng vụ; đồng chí Bùi Văn Ới được bầu giữ chức  vụ Phó Bí thư, phụ trách cán vụ. Tháng 9.1949, đồng chí Đậu Văn Kỳ được điều lên công tác ở huyện, đồng chí Nguyễn Đình Giai được điều động về làm Bí thư chi bộ. Đến tháng 4.1950, đồng chí Nguyễn Đình Giai được Tỉnh ủy điều về công tác tại Ban Nông vận.
Chi bộ chia làm 11 tổ đảng gồm có các tổ: Hưng Vận, Yên Trạch, Yên Hậu, Yên Lạc, Tam Đa, Thạch Khê, Nhất Tộc, Phương Tích, Hà Thôn, Tụy Anh, Mỹ Yên. Mỗi tổ có một đồng chí tổ trưởng và một đồng chí tổ phó. Sáu thôn chưa có đảng viên gồm: Bắc Sơn, Xuân Mỹ, Xuân La, Xuân Hòa, Hà Thanh, Đông Nghĩa. Đại hội phân công đồng chí Đậu Văn Tuy giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính.
  Sau đại hội, chi bộ phát động phong trào đẩy mạnh nhiệm vụ sản xuất, phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng rộng rãi, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu phá tan mọi âm mưu phá hoại của địch. Công tác xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phát triển nhanh về số lượng. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy Liên khu IV về thi đua xây dựng Đảng, lấy lực lượng đảng viên làm nòng cốt cho các phong trào, nên các chỉ tiêu phát triển đảng viên được giao cho các chi bộ xem xét quyết định. Kết quả là một phong trào phát triển Đảng được đẩy mạnh làm cho số lượng đảng viên ở các chi bộ tăng nhanh. Số đảng viên này đã góp phần tích cực xây dựng phong trào quần chúng trong các tổ chức. Song, do tập trung phát triển về số lượng, chưa chú trọng nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức đảng nên nhiều đảng viên không phát huy được vai trò lãnh đạo. Trước tình hình đó, tháng 9.1950, Trung ương ra chỉ thị tạm ngừng phát triển đảng để củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên.
Ngày 04.11.1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh nghĩa vụ quân sự: mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi đều phải ghi tên tòng quân nhập ngũ. Ngày 21.01.1950, tại Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: “Gấp rút hoàn thành chuẩn bị sang tổng tấn công”. Ngày 12.02.1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh “Quyết định tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân để tiến tới tổng phản công”. Vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh lúc này là hậu phương của Quân khu IV và cả nước. Một phong trào ghi tên nhập ngũ diễn ra sôi nổi, nhiều thanh niên ở Thần Lĩnh đã tham gia bộ đội lên đường chiến đấu.    Toàn xã đã động viên 372 thanh niên tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn, 87 anh chị em thanh niên gia nhập đội thanh niên xung phong phục vụ các chiến trường Tây Bắc, Trung du Bắc Bộ. Toàn xã huy động 548 lượt người đi dân công hỏa tuyến trong năm đợt cho Mặt trận Bình -  Trị - Thiên, Hòa Bình, Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào:  mỗi  đợt có 100 đến 120 người, thời gian từ 3 - 6 tháng. Tuy gian khổ, nhưng nhờ có sự lãnh đạo của chi bộ đoàn dân công, nên đợt dân công nào, xã Thần Lĩnh cũng hoàn thành nhiệm vụ (đặc biệt đợt dân công 1951 do đồng chí Hoàng Văn Vận chỉ huy được tỉnh và Ban chiến dịch biểu dương khen  thưởng).
Tại xã, trung đội du kích tăng cường luyện tập. Nhân dân Thần Lĩnh tích cực đóng góp nuôi quân bằng “Hũ gạo tiết kiệm”, tham gia quyên đồng để đúc đạn, hiến ruộng để làm điền qũy, tham gia mua lúa định giá để góp tiền nuôi quân. Để động viên vật lực cho chiến trường, ngày 14.9.1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 78 - SL/CP ấn định mức địa tô. Tháng 02.1950, Đại hội Đảng bộ huyện họp tại Nghi Thịnh thảo luận và bàn nhiệm vụ phát động toàn dân thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng “gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng tiến công”. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, một phong trào thi đua lao động sản xuất, đóng góp lương thực, thực phẩm phục vụ cho các chiến trường được nhân dân xã Thần Lĩnh sôi nổi thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của chi ủy, các tổ chức đoàn thể đi sát cơ sở vận động nhân dân đóng góp tiền của phục vụ kháng chiến như: vận động mua công trái quốc gia trong một tuần lễ thu được 137.500 đồng, tổ chức tiết kiệm hũ gạo nuôi quân thành phong trào thường xuyên trong   3 năm (1950 - 1952) thu trên 50 tạ gạo nuôi quân, tổ chức vận động hiến điền được 37 mẫu 8 sào.
Năm 1950, Chính phủ ban hành Sắc lệnh tịch thu ruộng đất địa chủ chạy vào vùng địch chiếm, thu tất cả ruộng đất bỏ hoang tạm cấp cho nhân dân. Cuộc vận động giảm tô, giảm tức, quy chế lĩnh canh, tạm cấp đất cho nông dân đã thực hiện rộng khắp, được nhân dân các làng tích cực hưởng ứng.
Tháng 7.1950, Chi bộ xã Thần Lĩnh tổ chức Đại hội tại đình làng Tam Đa với 479 đảng viên tham dự. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Ban Chấp hành bầu đồng chí Chu Văn Trân giữ chức Bí thư; đồng chí Đậu Văn Kinh giữ Phó Bí thư; phân công đồng chí Đậu Văn Uyên, phụ trách chính quyền. Đại hội đề ra nhiệm vụ: tích cực thực hiện cuộc vận động giảm tô, giảm tức, quy chế lĩnh canh, tạm cấp đất cho nông dân. Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, chi viện cho chiến trường. Trong thời gian này, chi bộ và nhân dân xã còn tập trung cho nhiệm vụ chống âm mưu phá hoại của địch và bọn phản động đội lốt tôn giáo chống phá cách mạng.
   Với âm mưu phá hoại ngay trong lòng hậu phương kháng chiến, thực dân Pháp đẩy mạnh các hoạt động móc nối, sử dụng bọn phản động nội địa, lợi dụng tôn giáo tiến hành các hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Nhằm tách giáo dân xa rời sự nghiệp kháng chiến, chúng tung các luận điệu xuyên tạc, nói xấu chính quyền cách mạng, ép giáo dân không được tham gia các tổ chức đoàn thể xã hội. Xã Thần Lĩnh có 25% dân số là giáo dân, có 7 xóm giáo dân toàn tòng, nên một số phong trào của nhân dân gặp khó khăn.
  Để đối phó với bọn lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Nghi Lộc chủ trương tăng cường các hoạt động tuyên truyền, vận động giáo dân không nghe theo những luận điệu xuyên tạc, chống phá chính quyền. Một mặt tăng cường lực lượng an ninh, dân quân du kích tại các xã vùng giáo, mặt khác tổ chức lực lượng tuần tra, canh gác tại các làng xóm 24/24 giờ; có kế hoạch theo dõi, giám sát, ngăn chặn các hoạt động của bọn phản động, đặc biệt là bọn gián điệp Phòng nhì Pháp thâm nhập chỉ đạo các hoạt động chống phá trong nội địa. Cuối năm 1951, khi tỉnh dùng lực lượng công an đến vây bắt bọn phản động đầu sỏ ở Hưng Yên, Xã Đoài, theo chủ trương chung của Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính xã cùng các đoàn thể lập đoàn cán bộ đi vào những xóm vùng giáo để tuyên truyền đường lối, chính sách của Chính phủ, vạch trần âm mưu của bọn phản động đội lốt tôn giáo để chống phá cách mạng. Đồng thời, xây dựng, củng cố đội ngũ cốt cán của ta ở vùng giáo. Tuy nhiên tình hình tôn giáo ở Thần Lĩnh vẫn diễn ra phức tạp. Bọn phản động và tay sai vẫn ngấm ngầm hoạt động, theo hình thức mới: không cho giáo dân dự hội họp, không cho cán bộ ta vào làng... Mặc dù khó khăn, nhưng cán bộ tôn giáo vận của xã vẫn kiên trì bám sát cơ sở, gần gũi quần chúng để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng.
Tháng 5.1951, Chi bộ xã Thần Lĩnh tổ chức Đại hội lần thứ 3. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí: đồng chí Nguyễn Đình Giai, cán bộ nông vận Trung ương, được điều về làm Bí thư; đồng chí Trần Hữu Bút được bầu giữ chức Phó Bí thư. Một thời gian sau, đồng chí Trần Hữu Bút được điều động về công tác tại Ủy ban kháng chiến hành chính huyện. Đồng chí Ngô Xuân Định được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư. Đại hội tiếp tục đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, thực hiện Sắc lệnh về thuế nông nghiệp, khuyến khích nông dân lao động tích cực khai hoang, tăng vụ và làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường.
Tháng 5.1951, Đại hội đại biểu huyện Nghi Lộc được tổ chức. Đại hội đã thảo luận ý nghĩa, mục đích của việc đổi tên Đảng, Cương lĩnh, Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam, ý nghĩa của việc Đảng chủ trương hoạt động công khai. Ngày 1.5.1951, Chính phủ ra Sắc lệnh số 13/SL về thuế nông nghiệp thể hiện đúng đường lối giai cấp của Đảng đối với nông dân, nhằm đánh nặng vào địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần nông, cố nông khuyến khích nông dân lao động sản xuất khai hoang tăng vụ, chiếu cố gia đình đông người, ưu đãi quân nhân, gia đình liệt sĩ.
Tháng 3.1952, Đại hội Chi bộ xã Thần Lĩnh lần thứ 4 được tổ chức. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đình Giai được bầu giữ chức vụ Bí thư. Đồng chí Bùi Hữu Hòa được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư. Tháng 5.1952, đồng chí Nguyễn Đình Giai được huyện điều đi học lớp y sĩ. Đồng chí Nguyễn Văn Cả được bầu giữ chức vụ Bí thư.
Sau lớp chỉnh huấn ở tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Cả được điều chuyển sang công tác ở Đoàn Thanh niên, đồng chí Võ Bá Tằng được chỉ định làm Bí thư. Cũng trong thời gian này, đồng chí Bùi Hữu Hòa được tỉnh điều đi công tác.
Trong thời gian này xảy ra sự kiện đấu tranh thanh toán thuế nông nghiệp chuyển sang đấu tranh chính trị, truy tìm phản động. Ở xã Thần Lĩnh, Chi ủy cũng thực hiện chủ trương này, cho phép dùng nhục hình để đấu tranh. Đây là một chủ trương tự phát, vô chính phủ, trái với đường lối lãnh đạo của Đảng. Đến tháng 12 năm 1952, sau khi phát hiện, Khu ủy Khu 4 đã ra lệnh đình chỉ các biện pháp trên. Tiếp đó Ủy ban kháng chiến hành chính huyện cử ông Nguyễn Đức Hòa về địa phương mở hội nghị để kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm. Sau hội nghị, Huyện ủy Nghi Lộc chỉ đạo kiện toàn công tác tổ chức, đồng chí Bùi Văn Phác được chỉ định tạm quyền Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã.
   Tháng 3 năm 1953, sau một thời gian chuẩn bị, được sự chỉ đạo của Huyện ủy Nghi Lộc, Chi bộ xã Thần Lĩnh tổ chức Đại hội lần thứ 5. Đại hội tập trung vào nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá thực hiện thanh toán thuế nông nghiệp và đề ra nhiệm vụ thực hiện triệt để chính sách giảm tô, giảm tức cho nông dân. Đồng chí Trần Hữu Bút được bầu giữ chức Bí thư. Đồng chí Đậu Sỹ Huyến được phân công làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính. Tháng 4 năm 1953, quân tình nguyện Việt Nam và quân đội Lào phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào. Để chuẩn bị cho chiến dịch, tỉnh chủ trương sửa chữa các tuyến đường giao thông để đảm bảo công tác vận chuyển tiếp tế. Trên địa bàn Nghi Lộc, tuyến Tỉnh lộ 534 từ Phương Tích đi Bảo Nham nối vùng đồng bằng với các huyện miền núi được tập trung tu sửa. Để đảm bảo kịp thời gian, huyện đã huy động một lực lượng hơn 1 ngàn người gồm bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân các xã gần Tỉnh lộ 534 tham gia đào đắp, tu sửa đảm bảo thông tuyến ô tô. Trên tuyến đường sông kênh Nhà Lê từ cầu Cấm lên Phương Tích, huyện huy động 800 người do dân quân du kích làm nòng cốt đào 1.235 mét khối đất cát, 57 âu thuyền trú ẩn ngụy trang đảm bảo thông tuyến các loại thuyền lớn.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương về công tác làm đường giao thông đáp ứng cho yêu cầu tác chiến ngày càng lớn, Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện đã chỉ đạo, tổ chức huy động hơn một ngàn dân quân, du kích và nhân dân các xã tu sửa tuyến Tỉnh lộ 534 từ Quán Hành đi Bảo Nham (Yên Thành). Các tuyến đường liên huyện được tập trung tu sửa để đảm bảo cho công tác giao thông vận tải, di chuyển phối hợp tác chiến của các lực lượng trong địa bàn. Công tác giữ gìn bí mật được chú trọng. Toàn dân thực hiện “ba không”(1), đặc biệt là bí mật tuyệt đối về số lượng dân công, hướng hành quân và địa điểm tập kết.
Tháng 9 năm 1953, Trung ương Đảng chủ trương cuộc “Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức”. Từ tháng 8 năm 1953, Khu ủy Khu IV, cử đội giảm tô về xã do đồng chí Đào làm Đội trưởng, đồng chí Trương Kiện làm Đội phó kiêm Bí thư chi bộ.
Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy và Tỉnh ủy, đội giảm tô và Chi ủy xã tổ chức cho cán bộ và nhân dân học tập chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ; phát động nông dân đấu tranh đòi địa chủ giảm tô, giảm tức theo đúng quy định. Đối với địa chủ cường hào gian ác, có nhiều tội thì xử lí tù giam hoặc quản chế, đối với những tên phản động, ngoan cố thì do Tòa án nhân dân xét xử. Tất cả những ruộng bán công, bán tư, ruộng địa chủ phân tán đều tập trung chia cho dân ít ruộng hoặc không có ruộng để sản xuất. Kết quả của đợt giảm tô là quyền làm chủ của nhân dân được đề cao, hạ uy thế địa chủ, cường hào, phú nông. Chủ trương giảm tô đã kịp thời động viên, cổ vũ các chiến sĩ và lực lượng phục vụ ngoài mặt trận. Song song với công tác trên, Ủy ban kháng chiến hành chính xã còn chỉ đạo nhân dân sản xuất khai hoang phục hóa trồng xen tăng vụ, đắp đập ngăn mặn ở hói Dứa, sông Su…
  1. Ba không:  không nghe, không biết, không thấy
Để đáp ứng với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, thực hiện Thông tri của Phủ Thủ tướng ngày 4.1.1954 về chia xã trong đợt phát động giảm tô, Huyện ủy chỉ đạo sắp xếp lại đơn vị hành chính. Huyện Nghi Lộc có 13 xã lớn nay được chia thành 38 xã mới. Xã Thần Lĩnh chia thành 2 xã gồm: xã Nghi Hưng và xã Nghi Phương. Tên xã Nghi Hưng ra đời từ đó, gồm các thôn: Hưng Vận, Yên Lãng, Yên Trạch, Yên Hậu, Tam Đa, Thạch Khê, Nhất Tộc, Xuân Hòa, Xuân Mỹ, Xuân Sơn, Xuân La.
Các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể được củng cố kiện toàn sắp xếp lại. Ban Chấp hành chi bộ xã gồm 11 đồng chí: Bùi Văn Hình (Nuôi) - Bí thư; Đậu Sỹ Thoại - Phó Bí thư, Bí thư Nông hội; Phạm Văn Nguôn - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính; Nguyễn Phú Tụy -Thường vụ, Tuyên huấn; Nguyễn Đình Xớc (Hước) - Phó Chủ tịch; Nguyễn Văn Hờm - Trưởng công an và các ủy viên gồm: Hoàng Văn Hải, Cao Xuân Khôi, Nguyễn Thị Cứ, Hoàng Văn Niên, Trần Hữu Lan.
  Ngày 30.3.1954, bộ máy chính quyền, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Nghi Hưng được thành lập gồm:
Ông Phạm Văn Nguôn              - Chủ tịch Ủy ban
Ông Nguyễn Đình Xớc (Hước) - Phó Chủ tịch
Ông Nguyễn Văn Toan (Tơn)   - Ủy viên thư kí   
 Ông  Nguyễn Văn  Đèo            - Ủy viên văn xã
 Ông Đinh  Bạt Vì (Vũ)             - Tài chính
  Bà Bùi Thị Hải
  Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 quyết tâm giành thắng lợi trên các chiến trường. Các chiến dịch ở Trung Lào, Hạ Lào và miền Bắc được đẩy mạnh. Với tinh thần quyết tâm và không khí khẩn trương, toàn Đảng, toàn dân huy động mọi nhân tài, vật lực chi viện cho các chiến trường. Cùng với nhiều xã trên toàn huyện, Nghi Hưng đã thành lập đoàn dân công chuẩn bị đầy đủ các phương tiện vận tải như: quang gánh, bao tải, bồ, gậy lên đường tham gia phục vụ chiến dịch Thượng Lào. Các lực lượng thanh niên xung phong, vận tải bằng xe đạp thồ cũng lên đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Với một hậu phương vững mạnh toàn tâm, toàn lực chi viện cho tiền tuyến, sau 56 ngày đêm chiến đấu gian khổ và ác liệt, ngày 7 tháng 5 năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, pháo đài quân sự bất khả xâm phạm của thực dân Pháp ở Đông Dương đã bị đập tan. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào âm mưu xâm lược của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ buộc chúng phải chấp nhận chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được kí kết.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến trường kì, anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng cùng nhân dân cả nước chung vui chiến thắng và tự hào góp phần xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

 
CHƯƠNG IV

NGHI HƯNG HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN CHỦ, CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI                                     (1954 - 1964)

 
    1. HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1954 - 1957)
      1. Củng cố tổ chức, khắc phục bão lụt, tham gia phục vụ công tác tập kết
Ngày 7.5.1954, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Nghi Hưng vui mừng chào đón thắng lợi vĩ đại của dân tộc, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Nghi Hưng bước vào một thời kì mới: thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
   Chiến tranh kết thúc, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, giữa lúc chi bộ đang tập trung cao lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực chống hạn, thi đua sản xuất thì tháng 9 năm 1954 một trận lụt lớn xảy ra làm đê 42 ven sông Lam bị vỡ, nước đổ về làm cho nhiều xã trong huyện Nghi Lộc bị ngập úng, nhà cửa  tài sản, cây trồng bị nước cuốn trôi hư hỏng, sản xuất bị ngừng trệ. Mặc dù là xã miền núi nhưng Nghi Hưng cũng bị ảnh hưởng rất nặng do địa bàn tiếp giáp với dòng sông Cấm. Mưa lớn kéo dài, nước ở các hồ đập dâng cao gây lở đất, lũ lụt ngập úng các diện tích lúa, nhiều cây trồng, ruộng đồng bị tàn phá. Sau đợt mưa lụt diện hộ đói nghèo tăng lên, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Chi bộ Nghi Hưng đã tập trung lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả lũ lụt, tích cực tìm biện pháp cứu đói nhân dân. Xã huy động lực lượng giúp đỡ các gia đình có nhà cửa bị hư hại, tích cực sản xuất rau màu ngắn ngày để chống đói, ổn định đời sống và sản xuất. Với tinh thần tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách’ , nhân dân đã đóng góp công sức, tiền của giúp đỡ các gia đình trong xã và nhân dân các xã trong huyện cũng như nhân dân huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn nơi có nhiều thiệt hại do lũ lụt. Với tinh thần chỉ đạo tích cực của chi bộ, chính quyền và tinh thần đoàn kết của nhân dân nên trong thời gian ngắn tình hình sản xuất và đời sống nhân dân đi vào ổn định.
Năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hòa bình được lập lại trên bán đảo Đông Dương. Liên khu IV và tỉnh Nghệ An giao nhiệm vụ cho huyện Nghi Lộc đón tiếp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc. Huyện Nghi Lộc có nhiệm vụ huy động lực lượng tu sửa  cảng Cửa Hội, khôi phục sân bay Vinh, sửa chữa các tuyến đường nội huyện, liên huyện, đoạn Quốc lộ 1A từ Vinh đi Diễn Châu. Nghi Hưng đã huy động nhân dân cùng dân quân tham gia tu sửa các tuyến đường liên xã. Từ cuối tháng 9 đến 12.1954, tại cảng Cửa Hội đã đón tiếp hơn 28 ngàn cán bộ, bộ đội, đồng bào miền Nam ra tập kết tại Nghệ An. Những người tập kết được các xã ven biển huyện Nghi Lộc đón về các gia đình nghỉ ngơi, học tập, an dưỡng, sau đó chuyển đi các nơi. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần tương thân tương ái, nhân dân Nghi Hưng đã tiếp đón 12 thương binh, đưa về các gia đình sắp xếp chỗ nghỉ ngơi, tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt và điều trị. Nhân dân các làng của Nghi Hưng đã đóng góp hàng chục tấn thực phẩm thịt bò, lợn, rau, bầu bí... phục vụ cho cán bộ và đồng bào tập kết. Sau một thời gian điều trị những thương binh được chuyển về nơi công tác, tiếp tục học tập, xây dựng các nông trường sản xuất. Các hộ gia đình đã nhận nuôi dưỡng, chính quyền xã giao ruộng cho nhân dân nhận sản xuất cuối vụ thu hoạch, bàn giao sản phẩm cho thương binh.
Trong một thời gian ngắn, chi bộ đảng và nhân dân Nghi Hưng đã thực hiện nhiều nhiệm vụ cách mạng khó khăn vừa tham gia giúp cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết vừa phải khắc phục bão lụt, chống đói, ổn định đời sống nhân dân và tham gia tiếp đón, chăm sóc, phục vụ thương binh về làng. Với tinh thần và quyết tâm vượt khó, nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, ổn định được đời sống và sản xuất, đưa các tổ chức đi vào hoạt động có nền nếp, tạo được phong trào cách mạng quần chúng trong sản xuất và xây dựng cuộc sống.
Sau Hiệp định Giơnevơ, với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta và thôn tính miền Bắc, lợi dụng một số khó khăn, tình hình phức tạp sau chiến tranh, đế quốc Mỹ và tay sai đã tuyên truyền, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa di cư vào Nam. Nghi Hưng là một xã có đồng bào theo đạo Thiên Chúa nên tình hình hết sức khó khăn, phức tạp. Do luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và nhận thức chưa đúng nên phong trào di cư của bà con giáo dân ngày càng đông, làm cho tình hình xã hội các tỉnh miền Bắc vô cùng phức tạp. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Trung ương và tỉnh, Huyện ủy tổ chức Hội nghị mở rộng triển khai nhiệm vụ chống địch dụ dỗ, cưỡng ép  di cư, đẩy mạnh phong trào sản xuất cứu đói… Chi bộ Nghi Hưng đã lãnh đạo chính quyền, mặt trận, đoàn thể triển khai nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng để bà con giáo dân tin tưởng, ổn định mọi mặt, tiếp tục ở lại quê hương làm ăn sinh sống đảm bảo an toàn trật tự xã hội. Sau khi có sự lãnh đạo của chi bộ đảng, bà con giáo dân đã yên tâm ở lại quê hương, làm ăn sinh sống, không tin vào những luận điệu của kẻ thù, dần dần ổn định đời sống.
      1. Thực hiện cải cách ruộng đất, ổn định đời sống nhân dân
Ngày 4.12.1953, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 thông qua Luật cải cách ruộng đất. Ngày 19.12.1953, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh 197/SL, ban bố Luật cải cách ruộng đất. Trung ương Đảng chủ trương cải cách ruộng đất chia làm 5 đợt. Nghệ An bắt đầu thực hiện cải cách ruộng đất từ đợt 3, từ tháng 3 năm 1955. Ở Nghi Lộc thực hiện từ đợt 4, từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1955 ở 10 xã ven biển, đợt 5 thực hiện ở các xã còn lại. Nghi Hưng được chỉ đạo thực hiện vào đợt 5.
Thực hiện chủ trương “người cày có ruộng” đã trở thành nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Việt Nam. Do đó, cải cách ruộng đất là một chủ trương đúng đắn của Đảng để thực hiện nguyện vọng ngàn đời của người nông dân “người cày có ruộng”. Đây là một cuộc vận động chính trị, kinh tế sâu rộng nhằm thay đổi vị thế của người lao động trong toàn xã hội. Để tiến hành cải cách ruộng đất, Đảng ta lập một hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Từ cấp Trung ương xuống cấp khu, thành lập Ủy ban cải cách, cấp tỉnh có Đoàn ủy cải cách, xã có Đội cải cách ruộng đất. Đoàn ủy cải cách điều cán bộ các ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, huyện và một số cán bộ cốt cán ở cơ sở thành lập Đội cải cách về từng xã, xóm ở nông thôn tiến hành công tác cải cách.
Tháng 12 năm 1955, Tỉnh ủy cử đội cải cách ruộng đất về xã gồm có: đồng chí Phạm Hồng Thái làm Đội trưởng; đồng chí Hồ Đẩu, Nguyễn Thị Đõa làm Đội phó. Sau khi về xã, Đội phân công cán bộ về từng xóm bắt rễ, xâu chuỗi để hoạt động, do không dựa vào các tổ chức ở địa phương, cho nên từ tổ chức đảng đến chính quyền, các đoàn thể đều ngừng hoạt động. Toàn bộ công tác lãnh đạo ở địa phương do Đội điều hành, quyết định. Công tác cải cách ruộng đất gồm các bước.
  1. Tuyên truyền chính sách, bắt rễ, xâu chuỗi, tìm chỗ dựa và bước đầu củng cố tổ chức.
  2. Phân định thành phần giai cấp, phân rõ ranh giới giữa nông dân với địa chủ, tổ chức đấu tranh, tố một số địa chủ đầu sỏ, cường hào gian ác.
  3. Tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất và tài sản của địa chủ, chia cho nông dân.
  4. Tổng kết thắng lợi và chỉnh đốn tổ chức xã.
Để chuẩn bị cho cải cách ruộng đất, công tác tổ chức được bố trí sắp xếp lại, cử những cán bộ cốt cán làm chủ trì của xã gồm: đồng chí Nguyễn Thị Chín - Bí thư chi bộ; đồng chí Nguyễn Thị Chân - Phó Bí thư kiêm Bí thư Nông hội; đồng chí Nguyễn Văn Bem - Chủ tịch Ủy ban hành chính.
Phương châm của cải cách ruộng đất là “dựa vào bần, cố nông, đoàn kết với trung nông liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ”. Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức học tập, động viên, cổ vũ nhân dân tích cực tham gia. Với tinh thần ngày sản xuất, đêm đấu tranh, khắp các thôn làng ngõ xóm các khẩu hiệu được kẻ vẽ, tuyên truyền, cổ động thực hiện cải cách ruộng đất. Một không khí sôi động diễn ra trên khắp các vùng nông thôn Việt Nam với tinh thần “có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”... Từ những tiêu chuẩn quy định của Trung ương, đội cải cách căn cứ tố khổ của nông dân mà phân loại thành phần để tịch thu ruộng đất, trưng mua, trưng thu ruộng đất và tài sản của địa chủ, phú nông chia cho dân nghèo. Cải cách ruộng đất đã thu được nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực. Đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm trong xã hội Việt Nam, đưa người nông dân từ thân phận nô lệ lên làm chủ cuộc sống của mình. Qua cải cách ruộng đất, ở 3 làng Tam Đa, Yên Lãng, Hưng Vận có 28 địa chủ, 15 phú nông. Tịch thu 438 mẫu 7 sào ruộng, 38 con trâu bò, 33 nhà ngói và nhà gỗ, nhiều tài sản khác chia cho nông dân. Cải cách ruộng đất đã mang lại cho mỗi nhân khẩu bình quân 3 sào 11 thước đất sản xuất. Những gia đình nghèo đói qua bình xét được chia một phần tài sản như dụng cụ gia đình, dụng cụ sản xuất, lúa, khoai, trâu bò... Một số gia đình đặc biệt khó khăn được chia nhà của địa chủ để ở. Trước cải cách ruộng đất, cả 3 làng có hơn 1.000 mẫu ruộng thì địa chủ chiếm 320 mẫu, hội giáp, chung đường 410 mẫu, nông dân chỉ có hơn 170 mẫu, trên 90% gia đình nông dân không có ruộng, phần lớn phải đi làm thuê, cuốc mướn, lĩnh canh… để sinh sống. Sau cuộc vận động cải cách ruộng đất đã tạo động lực to lớn cho quần chúng nhân dân tích cực tham gia các phong trào cách mạng xây dựng quê hương, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Cải cách ruộng đất là một chủ trương lớn của Đảng, về cơ bản đã giành được thắng lợi to lớn nhưng cũng phạm phải những sai lầm, khuyết điểm. Cũng như các địa phương khác trong tỉnh Nghệ An, cải cách ruộng đất ở Nghi Hưng có một số sai lầm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Do không đánh giá đúng tình hình thực tế của địa phương quy thành phần theo tỉ lệ phần trăm (%) đẩy một số trung nông, phú nông lên địa chủ, xâm phạm lợi ích của trung nông, thiếu liên hiệp với phú nông, không chiếu cố địa chủ kháng chiến, mở rộng đối tượng đấu tranh, không dựa vào tổ chức đảng, đoàn thể, không quan tâm đến vận động, thuyết phục, cải tạo. Trong cải cách ruộng đất lấy tổ chức Đoàn, Đội thay cho vai trò lãnh đạo của chi bộ đảng, tổ chức quản lí điều hành thực hiện của chính quyền, vận động của đoàn thể ở cơ sở. Trong đấu tranh thiên về đấu tố, quy kết… nên gây oan sai cho một số người, trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng tích cực trung thành với nhân dân.
Tháng 3 năm 1956, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Huyện ủy Nghi Lộc, xã Nghi Hưng chia thành 2 xã mới là: xã Nghi Hưng gồm các thôn: Tam Đa, Yên Hậu, Yên Trạch, Hưng Vận, Xuân Sơn và xã Nghi Đồng gồm các thôn: Thạch Khê, Xóm Bàu, Nhất Tộc, Xuân Hòa, Xuân Mỹ, Yên Lạc, Xuân La.
Ngày 18.8.1956, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nông thôn nói rõ thắng lợi và sai lầm trong thực hiện cải cách ruộng đất. Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết về công tác sửa sai và kiên quyết chỉ đạo sửa chữa sai lầm để tiến lên. Tháng 10 năm 1956, Tỉnh ủy Nghệ An họp quán triệt Nghị quyết của Trung ương, kiện toàn cấp ủy, chỉ đạo sửa sai. Tháng 11 năm 1956, Huyện ủy Nghi Lộc tổ chức họp mở rộng tại xã Nghi Thu để học tập, quán triệt Nghị quyết của Trung ương. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, tất cả cơ sở đảng trong huyện đều tổ chức Hội nghị đảng viên để sửa chữa sai lầm, chỉnh đốn tổ chức. Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm đối với lợi ích cách mạng nên việc sửa chữa sai lầm khuyết điểm nhanh chóng được khắc phục. Các tổ chức chính quyền, Mặt trận, Nông hội, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... đều được khôi phục, nhân dân đoàn kết, an ninh trật tự xã hội ổn định.
Để thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về công tác sửa sai, Chi ủy xã triệu tập Hội nghị chi bộ đầu tiên sau khi thành lập xã mới vào ngày 16.6.1956 tại đình làng Yên Lãng. Hội nghị mời những đảng viên, cán bộ bị xử lí kỉ luật trong thời gian cải cách ruộng đất đến dự. Hội nghị đã phục hồi đảng tịch cho 58 đồng chí bị khai trừ trong cải cách ruộng đất, nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm sai lầm của Đội cải cách ruộng đất, đồng thời kiến nghị bàn giao toàn bộ tài liệu, sổ sách cho chi bộ xã.
Hội nghị quyết định bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí và bầu đồng chí Hoàng Văn Vận làm Bí thư, phân công đồng chí Trần Hữu Bút làm Phó Bí thư kiêm phụ trách Nông hội, đồng chí Ngô Đức Mân làm Chủ tịch Ủy ban hành chính.
Sau hội nghị, chi bộ đã lãnh đạo, tổ chức Đại hội đại biểu nông dân toàn xã để sửa sai, minh oan cho những người bị tố cáo sai sự thật. Nhờ làm tốt công tác tư tưởng nên cán bộ, đảng viên, nhân dân đều yên tâm công tác và tập trung vào sản xuất, một số nhà cửa, tài sản, ruộng đất của người bị oan sai được trả lại. Phục hồi đảng tịch cho 12 đồng chí bị xử trí sai trong cải cách ruộng đất mà đoàn ủy cải cách ruộng đất chưa có quyết định phục hồi trong hội nghị chi bộ. Địa chủ bị quy là 28 hộ nay xác định lại 8 hộ không đúng quy định, đưa 3 hộ xuống phú nông, 5 hộ xuống trung nông. Toàn xã còn lại 12 hộ địa chủ trong đó có 2 hộ là địa chủ kháng chiến ở thôn Hưng Vận. Phú nông trong cải cách ruộng đất quy là 14 hộ nay xác định lại còn 4 hộ (một hộ vào miền Nam). Thành phần bóc lột 5 hộ nay đưa xuống trung nông. Tổng số những hộ bị quy sai trong cải cách ruộng đất đã bị tịch thu 22 mẫu 14 thước, 12 con trâu bò nay sửa sai đền bù lại 14 mẫu, 10 con trâu bò; 7 mẫu 9 sào 4 thước, 2 con trâu bò còn lại trả bằng tiền cho người bị quy sai. Sau khi sửa sai đền bù xong phần quả thực còn lại gồm: ruộng đất tịch thu, trưng thu, trưng mua 438 mẫu, 7 sào, 33 con trâu bò, 28 nhà, 72 cày bừa đem chia cho 343 hộ nông dân.
Với tinh thần sửa sai để tiến lên, phát huy vai trò trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân của các cấp ủy Đảng từ huyện đến cơ sở nên đã tập hợp được sự đoàn kết, quần chúng nhân dân nhanh chóng sửa sai, phát động một phong trào sản xuất mạnh mẽ, nhanh chóng khắc phục thiên tai do trận lụt lớn xảy ra ngày 5.9.1956 làm hư hỏng nhiều nhà cửa tài sản, các loại cây    trồng. Tại
Hội nghị tổng kết công tác sửa sai của Liên khu IV ngày 13.12.1957, huyện Nghi Lộc vinh dự được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng Nhất. Kết quả đó có sự tham gia tích cực của nhân dân Nghi Hưng.

 
    1. CẢI TẠO, XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
      1. Phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sau cải cách, ruộng đất đã được cấp cho người nông dân. Tuy nhiên, bộ mặt của nông thôn Nghi Hưng còn hết sức lạc hậu, đời sống, sản xuất của nhân dân còn thấp kém chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khép kín theo từng hộ gia đình. Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Chi bộ Nghi Hưng đã lãnh đạo nhân dân củng cố tổ chức, tích cực sản xuất, chăm lo công tác giáo dục, y tế, giữ vững an ninh trật tự xã hội và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4 năm 1958, Chi bộ Nghi Hưng tổ chức Đại hội, xác định nhiệm vụ của chi bộ là: động viên, hướng dẫn nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công tác quốc phòng, an ninh. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 đồng chí. Ban Chấp hành bầu đồng chí Trần Hữu Bút giữ chức vụ Bí thư; đồng chí Ngô Đức Mân được phân công giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.  Thực hiện chủ trương của Đảng trong sản xuất nông nghiệp, chi bộ tập trung lãnh đạo tổ chức thành lập các tổ đổi công dần đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể. Các tổ đổi công thường xuyên và đổi công mùa vụ được thành lập, mỗi tổ 10 đến 15 gia đình cùng giúp nhau trong sản xuất cày bừa, gieo trồng, thu hoạch, góp vốn, giống, phân bón… Sản xuất theo tổ đổi công đã giúp người nông dân có nhiều thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp nên được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Đến tháng 12 năm 1958, Nghi Hưng đã có 63 tổ đổi công thường xuyên và theo vụ. Phong trào thi đua sản xuất được phát động, giữa các xã và các tổ đổi công đều có ký cam kết thi đua. Nghi Hưng thi đua với Nghi Đồng, Nghi Phương về thực hiện kế hoạch vụ đông xuân 1959. Tháng 10 năm 1958, tại Hội nghị mở rộng Quân - Dân- Chính - Đảng, Ban Chấp hành chi bộ đã tổ chức phát động thi đua lao động sản xuất, xây dựng đời sống, đăng ký cam kết thi đua theo 5 tiêu chuẩn. Những tổ đổi công đạt được các tiêu chuẩn được nhận thưởng của Ủy ban hành chính xã. Giữa các tổ, chi hội cùng thi đua với nhau và đều có “giải” thưởng bằng lúa, ngô. Phong trào thi đua trong sản xuất thực sự tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ trong các tổ, chi hội, hội viên hăng hái, tích cực sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, làm tốt các nghĩa vụ thuế cho Nhà nước.
Tháng 11 năm 1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ra Nghị quyết đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể, nâng cao đời sống nhân dân. Chi bộ Nghi Hưng đã tập trung lãnh đạo công tác tư tưởng, tích cực vận động nhân dân tham gia vào tổ đổi công, phát động chiến dịch làm thủy lợi đắp các hồ đập, bờ vùng, bờ thửa, khai mương tưới, tiêu phục vụ sản xuất. Đồng thời, tích cực khai thác mọi nguồn phân bón, làm phân xanh, bùn hồ đập, ao… để bổ sung vào nguồn phân gia súc, gia cầm chăm bón cho các loại cây trồng, quyết tâm giành thắng lợi trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Chi bộ đã tổ chức học tập Nghị quyết 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân tạo nên một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn xã góp phần nâng cao nhận thức, hướng nhân dân vào con đường làm ăn tập thể, phát triển sản xuất, tích cực cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Sau đợt học tập, các tổ đổi công phát triển mạnh và thu hút trên 95% hộ nông dân tham gia.
Tháng 7 năm 1958, Huyện ủy cử đồng chí Nguyễn Đình Điếng cán bộ Phòng nông thôn huyện về xã chỉ đạo xây dựng Hợp tác xã Hoàng Văn Thụ tại Hưng Vận để làm mô hình học tập, rút kinh nghiệm. Sau khi học tập Điều lệ hợp tác xã, tất cả 47 hộ nông dân đều làm đơn xin gia nhập hợp tác xã.
Ngày 15.10.1958, hợp tác xã tổ chức đại hội bầu  Ban quản trị và Ban kiểm soát hợp tác xã gồm các ông: Hồ Trung Lộc làm Chủ nhiệm, Bùi Văn Cảnh làm Phó Chủ nhiệm, Nguyễn Đình Kinh làm Kế toán, Ngô Đức Tý làm Trưởng Ban kiểm soát.
Tháng 11 năm 1958, sau khi rút kinh nghiệm chỉ đạo Hợp tác xã Hoàng Văn Thụ, Chi ủy chỉ đạo xây dựng thành lập Hợp tác xã Trần Phú, bầu Ban quản trị, Ban kiểm soát gồm các ông: Dương Văn Toa làm Chủ nhiệm, Nguyễn Văn Quang làm Phó Chủ nhiệm, Phạm Văn Kiêm làm Trưởng Ban kiểm soát.
Tháng 12 năm 1958, sau khi tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm ở 2 hợp tác xã Hoàng Văn Thụ và Trần Phú, phong trào sản xuất của nông dân các xóm trong xã lên cao, Chi ủy tiếp tục chỉ đạo thành lập các hợp tác xã nông nghiệp đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các xóm còn lại lập hợp tác xã nông nghiệp, bỏ qua giai đoạn lập tổ đổi công thường xuyên. Trong thời gian này, trên địa bàn huyện đang tổ chức rút kinh nghiệm mô hình hợp tác xã ở một số địa phương. Nhưng ở Nghi Hưng, phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đã nhân ra diện rộng. Trong một thời gian ngắn đã có 508 hộ trên tổng số 588 hộ làm đơn xin gia nhập hợp tác xã.
Tháng 2 năm 1959, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghi Lộc khóa VI được tổ chức tại đền Bắc Thịnh (Nghi Thịnh). Đại hội đề ra nhiệm vụ: “không ngừng xây dựng Đảng bộ mạnh về tổ chức, tư tưởng. Phấn đấu đưa 90% hộ nông dân, 95% hộ ngư dân, 100% hộ làm nghề thủ công vào hợp tác xã bậc thấp và 15% hộ nông dân vào hợp tác xã bậc cao. Ra sức đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đất nước làm cho nhân dân trong huyện no ấm hơn, nâng cao trình độ văn hóa lên một bước cao hơn”.
Tháng 4 năm 1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ra Nghị quyết về xây dựng hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Huyện ủy đã tổ chức học tập rộng rãi cho mọi thành phần và chỉ đạo các xã xây dựng hợp tác xã, một phong trào thi đua sôi nổi xây dựng hợp tác xã toàn huyện được đẩy mạnh.
Tháng 4 năm 1959, chi bộ Nghi Hưng tổ chức Đại hội, bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, bầu đồng chí Bùi Văn Ới giữ chức Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Giám được phân công giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính. Đại hội đã cụ thể hóa các mục tiêu của Đại hội Đảng bộ huyện, quyết tâm đưa người nông dân Nghi  Hưng vào con đường làm ăn tập thể, nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tháng 10 năm 1959, để tạo điều kiện thuận lợi cho chi bộ phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Chi bộ Nghi Hưng được chia tách làm nhiều chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ xã, Ban Chấp hành chi bộ toàn xã nay gọi là Ban Chấp hành Đảng bộ xã.
Tháng 12 năm 1959, Chính phủ ban hành Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp. Ban Chấp hành Đảng bộ Nghi Hưng đã tổ chức học tập, thảo luận rộng rãi trong nhân dân và phát động phong trào thi đua xây dựng hợp tác xã được nhân dân tích cực hưởng ứng. Đến cuối năm 1959 và đầu năm 1960, Nghi Hưng đã thành lập xong các hợp tác xã nông nghiệp theo địa bàn thôn và thu hút hơn 90% hộ nông dân tham gia gồm: Hợp tác xã Minh Khai do ông Bùi Văn Sử làm Chủ nhiệm; Hợp tác xã Quang Trung do ông Võ Bá Biên làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã Ái Quốc do ông Vương Văn Bạn làm Chủ nhiệm; Hợp tác xã Chu Trinh do ông Phạm Văn Khánh làm Chủ nhiệm; Hợp tác xã Hồng Phong do ông Vương Văn Từ làm Chủ nhiệm; Hợp tác xã Ngô Quảng do ông Lê Xuân Trâm làm Chủ nhiệm, Hợp tác xã Thái Nguyên do ông Hồ Văn Dắt làm Chủ nhiệm. Riêng xóm Hồng Thái, có 46 hộ dân nộp đơn vào hợp tác xã, do thiếu cán bộ nên Ban Chấp hành Đảng bộ phân công đồng chí Ngô Đức Mân làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã kiêm Chủ nhiệm hợp tác xã. Đến cuối tháng 7 năm 1960, Hợp tác xã Hồng Thái tổ chức Đại hội bầu ra Ban quản trị do đồng chí Ngô Đức Mân làm Chủ nhiệm. Nghi Hưng vẫn còn 26 hộ giáo dân ở xóm Bắc Sơn chưa tham gia hợp tác xã. Đến năm 1962, Ban Chấp hành Đảng bộ phân công đồng chí Nguyễn Văn Viết làm Phó Chủ tịch, phụ trách nông nghiệp trực tiếp xây dựng hợp tác xã cuối cùng của xã. Cùng với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, Ban Chấp hành Đảng bộ chủ trương xây dựng hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán để hình thành 3 ngọn cờ hồng ở nông thôn. Tháng 2.1959, hợp tác xã tín dụng được thành lập. Các làng Tam Đa, Hưng Vận, Yên Lãng, lập tổ cung tiêu, đại lí hợp tác xã mua bán vùng tây huyện Nghi Lộc phục vụ cho nhân dân. Đến tháng 3.1963, hợp tác xã mua bán được thành lập do ông Trần Hữu Hà làm Chủ nhiệm.
Xây dựng hợp tác xã là một chủ trương lớn của Đảng sau cải cách ruộng đất nhằm đưa người nông dân vào con đường làm ăn tập thể tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc hoàn thành xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đã tạo nên một bước tiến mạnh mẽ trong nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, tạo ra bước ngoặt lớn trong xây dựng và phát triển nông nghiệp nông thôn. Với chức năng   trực tiếp quản lí ruộng đất canh tác, tổ chức sản xuất, xây dựng hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho các loại cây trồng, các hợp tác xã bước đầu đã phát huy được tính ưu việt đem lại những kết quả to lớn về kinh tế và xã hội. Việc người nông dân tự nguyện tham gia làm ăn tập thể đã hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo ở nông thôn, thay đổi cơ cấu giai cấp trong xã hội, khắc phục được những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Các hợp tác xã mua bán, tín dụng thu hút được nhiều người tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ xã viên trao đổi hàng hóa, làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, xây dựng vốn phát triển, cải thiện đời sống. Hợp tác xã cũng góp phần hình thành ý thức xã hội hóa trong thực hiện các công tác xã hội giáo dục, y tế. Việc học tập của con em tuy còn khó khăn, phòng học bằng tranh tre nhưng nhờ có tập thể tập trung xây dựng nên đảm bảo được việc dạy và học. Phong trào học bổ túc văn hóa xóa nạn mù chữ được duy trì thường xuyên thu hút được nhiều người tham gia. Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm củng cố. Xã có trạm y tế và tủ thuốc chữa bệnh, một số xóm có vệ sinh viên theo dõi trực tiếp công tác môi trường và sức khỏe nhân dân.
  Trong 2 năm, công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu được những thành tựu to lớn, tạo được chuyển biến quan trọng trên các lĩnh vực, cơ bản thực hiện thành công các nhiệm vụ trung tâm của chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo cho nông thôn Nghi Hưng một bộ mặt mới và những nền tảng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà.
      1. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà (1960 -1965) Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tháng 4 năm 1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế quốc dân, đồng thời phát triển mạnh mẽ phong trào làm thủy lợi, cải tiến công cụ, kĩ thuật, không ngừng nâng cao năng suất, phục vụ nhu cầu của nhân dân    và chi viện cho cách mạng miền Nam”.
Cùng với việc tổ chức học tập Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã tham gia hưởng ứng phong trào thi đua với chiến dịch “Tiếng trống Xô viết” nhằm thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng. Nội dung mà Đảng bộ tập trung lãnh đạo là: phát huy tinh thần đoàn kết, bất khuất của nông dân trong
cao trào 1930 - 1931, củng cố hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, đẩy mạnh thi đua sản xuất, sớm hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch năm 1960 tạo đà cho những năm tiếp theo.
Tháng 1 năm 1960, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp một cách toàn diện, vững chắc. Thực hiện chủ trương đổi mới mạnh mẽ về nông nghiệp, bước vào năm 1961, Nghi Hưng một mặt tiếp tục chỉ đạo thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, một mặt tổ chức sáp nhập các hợp tác xã bậc thấp thành hợp tác xã có quy mô lớn và vững chắc hơn.
Tháng 4 năm 1960, Đảng bộ tổ chức đại hội, bầu Ban Chấp hành gồm 12 đồng chí. Ban Chấp hành bầu đồng chí Bùi Văn Mai giữ chức vụ Bí thư; phân công đồng chí Hoàng Văn Giám giữ chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính. Ban Chấp hành Đảng bộ quyết định thành lập 4 chi bộ theo 4 đơn vị hợp tác xã. Chi bộ Nam Hưng gồm các xóm: Ái Quốc, Hồng Phong, Ngô Quảng do đồng chí Lê Xuân Trâm làm Bí thư. Chi bộ Đông Hưng gồm các xóm: Hồng Thái, Thái Nguyên do đồng chí Nguyễn Văn Nam làm Bí thư. Chi bộ Trung Hưng gồm các xóm: Trần Phú, Hoa Thám, Chu Trinh do đồng chí Trần Hữu Mai làm Bí thư. Chi bộ Bắc Hưng gồm các xóm: Văn Thụ, Minh Khai, Quang Trung do đồng chí Ngô Đức Tý làm Bí thư.
Đến đầu năm 1961, Nghi Hưng có 4 hợp tác xã quy mô lần 1 gồm: Hợp tác xã Nam Hưng do ông Vương Văn Bạn làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã Đông Hưng do ông Nguyễn Văn Lừng làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã Trung Hưng do ông Phạm Văn Độ làm Chủ nhiệm. Hợp tác xã Bắc Hưng do ông Bùi Văn Sử làm Chủ nhiệm.
Tháng 5 năm 1961, Đảng bộ tổ chức đại hội, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, bầu đồng chí Hoàng Văn Giám giữ chức vụ Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Hải được phân công giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính. Tháng 10.1961, tỉnh điều đồng chí Hoàng Văn Hải về công tác tại Ty Lâm nghiệp Nghệ An, đồng chí Hồ Trung Lộc được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đại hội đã thảo luận và quyết nghị những nội dung lớn: tập trung đẩy mạnh sản xuất vụ mùa, kiểm tra đồng ruộng, phát động phong trào làm “phân đào”, tiến hành ra quân làm thủy lợi toàn xã ở các hồ đập, bàu tràm, đắp bờ giữ nước. Huy động lực lượng dân quân làm nòng cốt, động viên toàn dân tham gia, đồng thời tổ chức lực lượng làm thủy lợi ở khe Bưởi theo kế hoạch huyện giao. Xây dựng lực lượng dân quân, công an theo Chỉ thị 15 của Tỉnh ủy, đề cao cảnh giác cách mạng.
Để phục vụ nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, năm 1961, được Bộ Thủy lợi và Ty Thủy lợi Nghệ An đầu tư vốn, huyện huy động lực lượng xây dựng hai hệ thống kênh mương đưa nước từ huyện Hưng Nguyên về phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện. Hệ thống phía đông sông Gai kéo về các xã Nghi Kim, Nghi Vạn, Nghi Diên, Nghi Hoa. Hệ thống phía tây sông Gai kéo ra các xã Nghi Công, Nghi Mỹ, Nghi Phương, Nghi Đồng. Một lực lượng trên 1.200 người do dân quân, du kích các xã làm nòng cốt được huy động tham gia. Cũng trong thời gian này, hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ dân quân du kích các xã đã được huy động xây dựng hồ chứa nước Khe Bưởi (Nghi Văn) để phục vụ nước tưới tiêu cho các xã Lâm, Văn, Kiều và nông trường bộ đội miền Nam tập kết xây dựng ở xã Nghi Văn. Nghi Hưng đã huy động một lực lượng lớn lao động tham gia trên các công trình thủy lợi của huyện.
Tháng 12 năm 1961, Bộ Chính trị họp và quyết định mở cuộc “Chỉnh huấn mùa xuân 1961”. Đây là đợt sinh hoạt chính trị nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa với nội dung là phục vụ cho sản xuất, cần kiệm xây dựng đất nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Một phong trào thi đua yêu nước được phát động, tinh thần hăng hái thi đua lao động sản xuất trong tất cả các ngành, các cấp, tổ chức được đẩy mạnh. Các hợp tác xã nông nghiệp tập trung thực hiện nhiều biện pháp lớn nhằm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đẩy mạnh chăn nuôi, chú trọng phát triển cây công nghiệp, cung cấp cây nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu, làm cho nông thôn trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp. Các hợp tác xã ở Nghi Hưng đã phát động phong trào áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như cày sâu, bừa kỹ, thay cày chìa vôi bằng cày 51, xử lí giống theo kĩ thuật“3 sôi 2 lạnh”, làm nhiều phân xanh, sử dụng xe cải tiến để vận chuyển thay cho đôi vai, tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm nhằm tăng sức cày kéo, làm thực phẩm nâng cao đời sống nhân dân, lấy phân phục vụ cho sản xuất. Công tác thủy lợi nội đồng được đẩy mạnh, đảm bảo tưới tiêu cho các loại cây trồng. Phong trào thi đua sản xuất trong nông nghiệp do Trung ương phát động được triển khai sâu rộng như học tập và đuổi kịp Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), thi đua với Hợp tác xã Duyên Hải (Hải Phòng)... Khí thế thi đua sôi nổi quyết tâm thực hiện các phong trào được nhân dân hưởng ứng sôi nổi. Diện tích canh tác được mở rộng, công tác khai hoang, phục hóa được đẩy mạnh.
   Nhân dân Nghi Hưng tập trung phục hóa các đồi núi, hồ đập, ruộng sâu ven các khe suối, sông Cấm đưa vào sản xuất, hăng hái tham gia và tạo điều kiện, giúp đỡ nhân dân các xã lên khai hoang lập trại. Cùng với phong trào thi đua sản xuất, Đảng bộ tập trung lãnh đạo về công tác tư tưởng nhằm nâng cao ý thức làm chủ, tinh thần trách nhiệm của mỗi đảng viên và tổ chức đảng trong việc phát triển kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng với phong trào xây dựng “Chi bộ 4 tốt”, “Đảng bộ 4 tốt”. Các tổ chức đảng, đảng viên đều tham gia đăng ký thực hiện tiêu chuẩn 4 tốt. Đoàn Thanh niên thực hiện phong trào “5 nhất”, phụ nữ có phong trào thi đua “5 tốt”, lực lượng dân quân tự vệ với phong trào thi đua “3 nhất”, ngành giáo dục có phong trào “hai tốt” theo gương trường Bắc Lý (Hà Nam). Phong trào thi đua của các tổ chức, đoàn thể đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Đời sống được nâng lên, nhân dân phấn khởi, tin tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm tốt nhiệm vụ hậu phương đối với cách mạng miền Nam.
Tháng 10 năm 1963, Đại hội Đảng bộ được tổ chức, bầu 11 Ủy viên Ban Chấp hành, đồng chí Nguyễn Phú Khiếng được bầu làm Bí thư, phân công đồng chí Hồ Trung Lộc làm Chủ tịch Ủy ban hành chính. Đại hội đánh giá: sau nhiệm kỳ 2 năm, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã nỗ lực phấn đấu và thu được những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt, lương thực bình quân đầu người tăng từ 17 kg năm 1962 lên 22 kg năm 1963; hầu hết nông dân đều tham gia hợp tác xã, các phong trào thi đua sản xuất phát triển mạnh. Đảng bộ tập trung lãnh đạo hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, làm tốt công tác điều hòa, dự trữ lương thực nên nhân dân ổn định tư tưởng, công tác an ninh thôn xóm đảm bảo. Đảng bộ luôn làm tốt công tác chính sách động viên quân sự, lực lượng dân quân được củng cố và thường xuyên luyện tập, công tác văn hóa giáo dục có nhiều tiến bộ, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm hơn. Những kết quả đạt được cũng khẳng định vai trò tổ chức giáo dục động viên của mặt trận và các đoàn thể chính trị làm lực lượng chính trong các phong trào thi đua sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa xã hội. Đại hội cũng chỉ rõ những mặt hạn chế trong 2 năm thực hiện các mục tiêu của Đại hội: là cơ sở vật chất còn yếu kém, thi đua áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất chưa mạnh, nên việc tăng năng suất các loại cây trồng còn thấp như lúa, khoai, ngô... Trong công tác xây dựng Đảng, tinh thần giác ngộ xây dựng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng của một số đảng viên chưa cao, phát triển đảng viên chưa mạnh. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ là: tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, xây dựng đoàn kết thống nhất, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của đoàn thể. Đẩy mạnh việc học tập văn hóa, tổ chức tốt hoạt động tuyên truyền văn hóa - văn nghệ, làm tốt công tác quân sự địa phương, đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cải tiến công cụ, thâm canh các loại cây trồng, đưa năng suất, sản lượng các loại cây trồng lên cao, phát triển chăn nuôi, mỗi hộ ít nhất nuôi 2 con lợn, Đảng bộ quyết tâm hoàn thành chỉ tiêu thuế, lương thực được giao. Đại hội đề ra các nhiệm vụ trong thời gian tới là: làm tốt công tác xây dựng Đảng, mở rộng dân chủ, đoàn kết chặt chẽ, giáo dục chính trị cho đảng viên gương mẫu trong mọi hoạt động, củng cố các tổ chức quần chúng, xây dựng ý thức tự giác cho cán bộ, đảng viên nhất là tham gia học chính trị và văn hóa, quan tâm bồi dưỡng phát triển đảng viên. Đồng thời, phát triển kinh tế, xây dựng hợp tác xã vững mạnh toàn diện, đưa năng suất lên cao, hoàn thành kế hoạch năm, diện tích các loại cây trồng huyện giao, cùng với việc củng cố lực lượng dân quân tự vệ, công an, thường xuyên luyện tập sẵn sàng chiến đấu khi có yêu cầu.
Sự phát triển kinh tế, xã hội của Nghi Hưng trong những năm cuối thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng có một ý nghĩa quan trọng, đó là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ về tư duy kinh tế, bước đầu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo ra những tiền đề vật chất và tư duy kinh tế mới trong nông nghiệp  nông thôn - kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa để xây dựng, phát triển nền kinh tế với quy mô lớn hơn.
Trong thời điểm nhân dân Nghi Hưng đang tập trung cao thi đua lao động sản xuất cùng nhân dân miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì ở miền Nam chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đang dần thất bại. Để cứu vãn tình thế, bộ máy quân sự hiếu chiến của Mỹ đã vạch kế hoạch và tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu, các phương tiện chiến tranh vào miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh không quân ra miền Bắc. Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng cùng nhân dân miền Bắc chuẩn bị chuyển hướng thực hiện nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa chi viện cao hơn cho chiến trường miền Nam đấu tranh thống nhất Tổ quốc

CHƯƠNG V

NGHI HƯNG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, CHI VIỆN CHO CÁCH MẠNG MIỀN NAM  ĐẤU TRANH

THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ (1964 - 1975)
  1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
Ngày 27.3.1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt thể hiện quyết tâm cách mạng của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Người kêu gọi quân, dân miền Bắc phấn đấu hoàn thành Kế hoạch 5 năm: “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam”.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lời kêu gọi thiêng liêng của Người, Tỉnh ủy chỉ đạo các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể khẩn trương xây dựng lực lượng phòng tránh, đánh địch, làm tốt công tác phòng không nhân dân, ngăn chặn kịp thời âm mưu phá hoại địch. Các hoạt động giữ gìn an ninh trật tự xã hội luôn được đảm bảo. Lực lượng dân quân du kích thường xuyên tập luyện. Ngày 28.4.1964, Chủ tịch nước kí Sắc lệnh số 11 ban hành Luật nghĩa vụ quân sự. Nhiều thanh niên Nghi Hưng đã hăng hái tham gia khám tuyển lên đường nhập ngũ. Để động viên thanh niên nhập ngũ an tâm công tác, hoàn thành nghĩa vụ, xã phát động phong trào chăm lo các hộ gia đình có người tham gia chiến đấu ở chiến trường bằng cách giúp ngày công, sức kéo, ưu tiên công tác thủy lợi... chăm lo công tác hậu phương quân đội.
Tháng 4 năm 1964, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định chuyển một bộ phận lực lượng vũ trang, trong đó có quân chủng phòng không, không quân từ trạng thái thời bình sang trạng thái thời chiến. Nhận định khả năng Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh, tiến hành ném bom miền Bắc nhằm uy hiếp tinh thần của nhân dân ta và gỡ thế thất bại ở chiến trường miền Nam và Lào. Tháng 6 năm 1964, Bộ Chính trị ra chỉ thị về tăng cường công tác phòng không một cách khẩn trương, chu đáo và toàn diện, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: phương châm đối phó của ta cơ bản là kết hợp mọi biện pháp đánh địch và biện pháp phòng tránh, lấy bộ đội phòng không làm nòng cốt, kết hợp phát động phong trào rộng rãi bắn máy bay bằng súng bộ binh trong các lực lượng vũ trang. Đó là quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng ta trong điều kiện lịch sử mới.
   Đến cuối tháng 7 năm 1964, lực lượng vũ trang, nhất là phòng không, không quân, hải quân của ta đã nhanh chóng triển khai thực hiện hoàn thành công tác sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện kế hoạch của Tỉnh đội, kết hợp với Công an nhân dân vũ trang, Nghi Lộc trở thành một trong 19 cụm hiệp đồng chống biệt kích, bảo vệ trị an. Đặc biệt là đối với các xã vùng biển, vùng núi phía tây, Huyện ủy chỉ đạo cơ quan Quân sự huyện xây dựng phương án hiệp đồng tác chiến đánh địch với những xã trọng điểm và các xã tiếp giáp với các huyện bạn. Nghi Hưng là xã trọng điểm, tổ chức lực lượng tham gia cụm hiệp đồng chiến đấu, xây dựng phương án tác chiến đánh địch.
Để đánh lừa dư luận và tạo cớ dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, những ngày đầu tháng 8 năm 1964, Mỹ đã dùng tàu biệt kích, tàu hải quân nhiều lần xâm phạm hải phận miền Bắc, tiến hành các hoạt động tuần tiễu, khiêu khích. Đặc biệt, ngày 4.8.1964, chúng dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ bằng “cuộc giao chiến” giữa lực lượng hải quân ta và 2 tàu chiến Mỹ, để lấy cớ yêu cầu Tổng thống và Quốc hội Mỹ thực hiện kế hoạch ném bom miền Bắc Việt Nam.
Ngày 5.8.1964, Mỹ huy động 64 lần máy bay ném bom đánh phá dọc theo bờ biển nước ta mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại với quy mô dài ngày, tàn khốc trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ở Nghệ An, máy bay Mỹ nhiều lần đánh vào thành phố Vinh, kho xăng dầu Vinh - Bến Thủy, cảng Cửa Hội, trường Trung cấp Thủy sản Nghệ An đóng ở xã Nghi Xuân. Với tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, các lực lượng được chuẩn bị tốt mọi mặt, sự phối hợp tác chiến nhịp nhàng, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu đánh trả quyết liệt các đợt ném bom. Ngay đợt đầu, quân, dân thành phố Vinh đã bắn rơi 1 máy bay của đế quốc Mỹ.
Ngày 17.9.1964, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghi Lộc ra Nghị quyết “Chuyển từ thời bình sang thời chiến, kết hợp hai nhiệm vụ vừa tổ chức vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vừa tiếp tục hoàn thành kế hoạch 5 năm 1961 - 1965, góp phần chi viện người và của cao nhất cho cách mạng miền Nam”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ Nghi Hưng đã tập trung lãnh đạo và phát động toàn dân tăng cường công tác quốc phòng, phòng không sẵn sàng chiến đấu, làm tốt công tác sơ tán và tập trung cao cho sản xuất. Trong thời gian gấp rút, các gia đình đều đào được hầm trú ẩn, hầm cất giấu tài sản, hàng ngàn mét giao thông hào được đào đắp nối liền khắp các xóm, các công sở, trường học, dọc trục giao thông... đều có hầm trú ẩn. Công tác cứu thương, tải thương được tập huấn, hướng dẫn đến từng hộ gia đình và mỗi gia đình đều xây dựng túi cứu thương thiết yếu tại chỗ.
Năm 1964, để mở rộng diện tích đất sản xuất và bảo đảm ổn định đời sống cho nhân dân ở vùng thường xuyên bị ngập lụt, Đảng ủy chỉ đạo chuyển các hộ dân Yên Trạch lên ở xứ Khâm Đồng và lập thêm Hợp tác xã Tây Hưng, đồng thời quy hoạch lại dân cư chuyển một số gia đình ở Đông Hưng, Nam Hưng (Tam Đa) lên ở xứ đồng Bà Thiếu và thành lập Hợp tác xã Tam Sơn.
Đầu năm 1965, với ý đồ bình định nhanh chóng miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Ở miền Bắc, lực lượng không quân và hải quân Mỹ mở rộng quy mô, tăng cường độ đánh phá. Tháng 3 năm 1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (khóa III) xác định nhiệm vụ của quân dân miền Bắc là: xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam, đảm bảo đời sống nhân dân, đáp ứng hậu cần tại chỗ, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện cho miền Nam và Lào. Chuyển hướng xây dựng kinh tế thời chiến, chuyển hướng tư tưởng và tổ chức... tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Nghi Hưng là xã nằm trên tuyến giao thông nối vùng biển với các huyện vùng núi của Nghệ An. Trên địa bàn xã có nhiều cơ quan, đơn vị đóng quân như: 6 trận địa bộ đội pháo phòng không, bộ đội đặc công, Đại đội 333 và 310 thanh niên xung phong, đơn vị bộ đội công binh (cầu 5), trường Trung cấp Thương nghiệp, đơn vị bộ đội công binh rà phá bom, đạn và là tuyến đường hành quân của bộ đội trên đường vào Nam chiến đấu. Có dòng sông Cấm nơi thuyền vận tải hàng hóa, vũ khí và điểm cao Thần Vũ, Tây Xây là mục tiêu quân sự. Phía đông bắc xã là cầu Cấm trên Quốc 1A trọng điểm giao thông quan trọng. Đó là những mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo tổ chức cho nhân dân thực hiện công tác phòng tránh, đánh địch, nhằm bảo đảm an toàn cho người và tài sản. Các gia đình đều huy động mọi nguyên vật liệu xây dựng hầm trú ẩn. Chuồng trại gia súc đều hạ thấp xuống dưới mặt đất. Ven các trục đường giao thông, trong làng, ngoài đồng đều có hầm trú ẩn. Các lớp học sơ tán về các xóm và đắp lũy đất bao quanh phòng học tránh bom đạn, có lối thoát bằng hào giao thông. Các em học sinh đi học, ra khỏi nhà đều phải đội mũ rơm. Cùng với việc phòng tránh, Đảng bộ Nghi Hưng đã lãnh đạo nhân dân và các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt việc phục vụ các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn xã. Nhiều nhà thờ, nhà dân đều được sử dụng làm nơi cất giữ hàng hóa, vũ khí, lương thực, thực phẩm hoặc là nơi làm việc của Đảng ủy, Ủy ban hành chính, mặt trận, đoàn thể và các cơ quan. Công tác phục vụ chiến đấu, phòng tránh đánh địch, giao thông vận tải nhân dân đều hăng hái tham gia sẵn sàng huy động mọi của cải, phương tiện, không sợ gian khổ hi sinh với tinh thần quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Nhờ làm tốt công tác chỉ đạo, tuyên truyền và tinh thần quyết tâm cao độ của toàn dân, đến cuối năm 1965, Nghi Hưng đã đào được hơn một ngàn mét hào giao thông nối các xóm và bám ven các trục đường chính, đào được hơn 3.500 hầm trú ẩn các loại. Nhân dân đã đóng góp hàng ngàn ngày công, 35 tấn nguyên vật liệu, cây gỗ các loại để phục vụ cho công tác di dời, làm nơi trú ẩn, sinh hoạt của các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn.
  Tháng 1 năm 1965, để đáp ứng cho yêu cầu chiến đấu và sản xuất, xã đã thành lập một trung đội mạnh trực chiến cơ động gồm 25 người, được trang bị 1 khẩu 12,7 ly, 1 khẩu đại liên, 1 khẩu thượng liên, trung đội vừa làm nhiệm vụ trực chiến đấu trên địa bàn xã vừa cơ động chiến đấu phối hợp ở các xã bạn. Tháng 8 năm 1966, để đáp ứng yêu cầu chiến đấu, nhất là bảo vệ các tuyến giao thông huyết mạch, Huyện đội Nghi Lộc có quyết định điều chuyển trung đội trực chiến ra đóng quân giáp khu vực cầu Cấm. Trung đội được tăng cường trang bị gồm 2 khẩu 12,7 ly, 2 khẩu đại liên, 1 khẩu trung liên. Tháng 5.1965, máy bay Mỹ đánh vào làng Hưng Vận (xóm 1) và đơn vị trực chiến pháo 12,7 ly, tháng 6 năm 1966, máy bay Mỹ dùng bom từ trường, bom sát thương đánh vào xóm 6 và 7 làng Tam Đa, làm chết 7 người, làm cháy, hư hỏng nhiều nhà cửa của hộ dân. Ngay giữa lúc khói bom, các lực lượng dân quân cứu thương, dập cháy đã có mặt cứu người, tài sản của nhân dân.
Tháng 6 năm 1965, Bộ Chính trị quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Để phục vụ cho mặt trận, Bộ Giao thông mở chiến dịch “giao thông quyết thắng”, nối với Tỉnh lộ 534, mở hai tuyến: một tuyến rẽ từ Nghi Mỹ qua xã Nghi Công sang Đường 15A tại chợ Tro huyện Nam Đàn; một tuyến rẽ từ ngã ba Cổ Văn (Nghi Văn) qua xã Nghi Kiều đến Mỹ Sơn, Đại Sơn sang Đường 15A tại Truông Bồn, Đô Lương. Ban Chấp hành Đảng bộ Nghi Hưng đã chỉ đạo huy động nhân dân đóng góp hàng ngàn ngày công, vật liệu làm đường giao thông, phục vụ cho công tác vận tải.
Để phục vụ tốt hơn công tác chiến đấu, ngoài trung đội trực chiến xã thành lập 1 trung đội cứu thương gồm 20 người vừa cấp cứu nhân dân vừa cứu chữa thương binh; các xóm đều có tổ cứu thương sẵn sàng cấp cứu, ứng cứu khi hầm, nhà bị sập; 1 tiểu đội chuyên lo công tác hậu cần; 1 trung đội sửa chữa đường giao thông; 1 trung đội dân quân tại chỗ hơn 100 người thường xuyên       chuyển súng đạn, các phương tiện hậu cần phục vụ chiến đấu cho các đơn vị bộ đội; một tiểu đội quan sát theo dõi máy bay Mỹ hướng dẫn giúp nhân dân tránh bom vừa báo cấp cứu nơi địch đánh phá; 1 tiểu đội công binh rà phá bom, đạn, ngoài ra còn có một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân chủ yếu là thanh niên với hơn 300 người sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có yêu cầu. Ngoài lực lượng được tập hợp thành tổ chức thì các em học sinh tích cực tham gia chặt lá ngụy trang, thu gom giẻ cho bộ đội lau súng, người già lo việc hậu cần cho con cháu tham gia chiến đấu, lo vận động quyên góp rau, quả, thực phẩm... Có thể nói, không người dân Nghi Hưng nào đứng ngoài cuộc chiến, tất cả vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa và miền Nam ruột thịt.
Với điều kiện địa hình rộng lớn, đồi núi, đất đá nhiều, dân cư phân bố không tập trung nhưng Nghi Hưng đã tổ chức được một lực lượng lớn người tham gia vào cuộc chiến đấu, xây dựng được một hệ thống phòng thủ và phục vụ công tác chiến đấu khá đầy đủ và kiên cố. Đó là kết quả của lòng quyết tâm là sức mạnh và ý chí của cuộc chiến tranh nhân dân.
  Nằm trong vùng trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ với nhiều mục tiêu và nằm trên trục giao thông huyết mạch chạy qua, nên Đảng bộ Nghi Hưng tập trung cao lãnh đạo, tổ chức cho nhân dân tích cực làm tốt công tác phòng tránh, đánh địch đảm bảo an toàn, hạn chế thấp nhất các thiệt hại về người và tài sản vừa phải tập trung sản xuất, phục vụ tốt cho lực lượng tham gia chiến đấu. Các tổ dân quân từng xóm làm nhiệm vụ hướng dẫn, đưa người già, trẻ em sơ tán ẩn nấp vào các khe suối, tránh xa các mục tiêu khi địch đánh phá. Các hội viên, đoàn viên, thiếu niên tích cực tham gia phục vụ chiến đấu: chuyển phên liếp, tre, gỗ chống lầy cho xe vận tải hàng hóa, đưa cơm nước cho lực lượng chiến đấu, lá ngụy trang cho trận địa pháo. Đội dân quân của xã đã giúp đơn vị Kho xăng K3 đào các hầm lớn để chôn các thùng xăng tại các đồi, tham gia đào hàng chục km đường ống dẫn dầu nối Nghi Văn đi Nghi Kiều và các xã Nghi Liên, Nghi Vạn. Để động viên bộ đội và các lực lượng tham gia chiến đấu trực tiếp với phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, tranh thủ những đêm địch không đánh phá, thanh thiếu niên, phụ nữ tổ chức giao lưu văn nghệ trên các trận địa pháo, đơn vị bộ đội.
Từ giữa năm 1965, sau khi leo thang đánh phá trên phạm vi toàn miền Bắc không đạt được mục đích, đế quốc Mỹ dồn lực lượng đánh phá các mục tiêu từ Bắc khu 4 trở vào nhằm chặn đường yết hầu chi viện cho chiến trường miền Nam nên các trọng điểm giao thông, quân sự bị đánh phá dữ dội. Trước sự đánh phá ác liệt của máy bay, hải quân Mỹ, Ủy ban hành chính tỉnh chủ trương sơ tán người và hàng hoá lương thực... về nơi an toàn. Một cuộc di chuyển, vận tải khắp nơi được tổ chức, nhân dân Nghi Hưng đã tham gia tích cực trong việc tổ chức sơ tán cho nhân dân trong xã và tiếp đón, bố trí cho các xã vùng phía đông, ven biển lên sơ tán. Với sự chỉ đạo chặt chẽ, chu đáo công tác bố phòng xây dựng lực lượng chiến đấu, phòng không sơ tán phục vụ chiến đấu có hiệu quả, quân dân Nghi Hưng đã kiên cường bám trụ chiến đấu đẩy mạnh sản xuất đảm bảo được diện tích, năng suất, sản lượng, hoàn thành các nhiệm vụ Nhà nước giao, ổn định đời sống nhân dân. Trong khói lửa chiến tranh, các phong trào văn hóa xã hội, giáo dục vẫn duy trì phát triển mạnh với nhiều thành tích xuất sắc. Cũng trong thời gian này, Nghi Hưng tiếp tục thực hiện chuyển các hợp tác xã bậc thấp lên các hợp tác xã có quy mô lớn hơn nhằm huy động tối đa sức người phục vụ sản xuất và chiến đấu.
Là địa bàn bị đánh phá ác liệt nên nhân dân Nghi Hưng cũng chịu nhiều tổn thất. Tháng 5.1966, máy bay Mỹ đánh vào công trường xây dựng đập Khe Lau, làm chết người, ngày 18.6.1966 đánh vào xóm Yên Trạch (Yên Lãng) vị trí gần cầu bắc qua đường chính của xã làm cháy 10 ngôi nhà, chết 4 người của gia đình ông Dương Văn Hiển.
 Ngay trong các đợt ném bom đánh phá của máy  bay Mỹ giữa khói lửa, bom đạn, Đảng ủy, chính quyền xã đã kịp thời chỉ đạo huy động các lực lượng khẩn trương cấp cứu người bị thương, tổ chức dập cháy cứu người, nhà cửa, tài sản. Đồng thời làm tốt công tác chôn cất người chết, thu dọn, sửa chữa nhà cửa cho những gia đình hư hại, giúp những gia đình bị thiệt hại do bom đạn mau chóng ổn định đời sống. Động viên nhân dân khắc phục khó khăn, tập trung sản xuất, tăng cường công tác phòng tránh, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản.
Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước kiên trì, quyết tâm đánh Mỹ.   Hưởng ứng lời kêu gọi của Người và thấm nhuần chân lí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, với quyết tâm cao hơn, mạnh mẽ hơn, Đảng bộ phát động phong trào thi đua sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi. Cuối tháng 6 năm 1966, các điểm giao thông qua cầu Cấm, cầu Phương Tích bị máy bay Mỹ đánh phá dữ dội, lực lượng dân quân trực chiến Nghi Hưng đã phối hợp với bộ đội phòng không, dân quân các xã Nghi Yên, Nghi Phương, Nghi Đồng dũng cảm chiến đấu suốt ngày đêm bảo vệ vững chắc các căn cứ hậu cần và đảm bảo giao thông thông suốt. Cũng trong thời gian này nhận nhiệm vụ của huyện giao, Nghi Hưng đã huy động một lực lượng dân quân hơn 100 người tham gia suốt 10 ngày đêm làm giao thông trên Tỉnh lộ 534. Mặc dù máy  bay liên tục đánh phá nhưng lực lượng làm giao thông vẫn bám đường, tranh thủ mọi thời gian, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, nhân dân Nghi Hưng đã hoàn thành hơn 1.000 mét đường, đảm bảo thông xe toàn tuyến. Lực lượng làm giao thông địa phương tại chỗ luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có yêu cầu.
Sau lễ Noel 25.12.1966, đế quốc Mỹ tăng cường độ đánh phá vào các huyết mạch giao thông miền Bắc. Ở Nghi Lộc, cầu Cấm, cầu Phương Tích là các địa điểm bị đánh phá ác liệt. Sau khi cầu Cấm và cầu Phương Tích bị đánh sập, Huyện ủy, Ủy ban hành chính chỉ đạo các xã động viên nhân dân cùng với thanh niên xung phong làm đường liên xã, liên huyện phục vụ vận tải hàng hóa bằng xe thô sơ. Đảng ủy, Ủy ban hành chính xã đã động viên nhân dân và lực lượng thanh niên xung phong hăng hái tham gia làm đường liên huyện từ Cửa Lò qua Nghi Kiều, Nghi Văn nối Đô Lương và Quốc lộ 7 tại cầu Khuôn. Nhân dân đã tham gia hàng trăm ngày công cùng nhiều nguyên vật liệu tre, gỗ, đào hàng ngàn mét khối đất đá để đắp đường. Xã huy động nhân dân tham gia làm cầu gỗ tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông phục vụ sinh hoạt và yêu cầu chiến tranh. Sau khi tuyến đường được nối liền, đội xe đạp thồ của xã đã tham gia vận tải hàng hóa tập kết sang các huyện Hưng Nguyên, Đô Lương, Nam Đàn.
Tháng 1 năm 1967, Quân khu IV phát động chiến dịch giao thông vận tải “hai chống, ba thông” trong dịp ngừng bắn lễ Noel năm 1966 và đón xuân Đinh Mùi năm 1967. Huyện Nghi Lộc đã hưởng ứng chiến dịch, các đơn vị bộ đội, dân quân tự vệ các xã được giao nhiệm vụ khẩn trương rà phá bom mìn, thủy lôi để thông tuyến. Công nhân giao thông, thanh niên xung phong phối hợp với nhân dân các địa phương tích cực san lấp hố bom, sửa chữa mặt đường chống lầy, lún, cầu Cấm, được làm thêm cầu phụ ở phía tây.
Để phá thế độc bến, độc đường, Ban đảm bảo giao thông tỉnh chỉ đạo làm thêm ba bến phà ở cầu Cấm, hai bến phà ở cầu Phương Tích. Cầu phao ở phía nam cầu Cấm nối đường Riềng (Nghi Hưng) với Quốc lộ 1A, cùng với hoàn thành các đường tránh cầu Cấm và cầu Phương Tích, Ủy ban hành chính huyện chỉ đạo các xã động viên nhân dân phối hợp với thanh niên xung phong làm đường liên xã, liên huyện phục vụ cho vận tải hàng bằng các phương tiện thô sơ. Dài nhất là tuyến đường từ Cửa Lò qua chợ Sơn, Quán Hành, cắt ngang Quốc lộ 1A vượt sông chợ Cầu (Xã Đoài) xuyên qua các xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên đi Nghi Công, Nghi Lâm, Nghi Kiều huyện Nghi Lộc và đến các xã thuộc huyện Đô Lương nối với Quốc lộ 7 tại cầu Khuôn. Tại xã Nghi Văn  làm  thêm  tuyến  đường  đi  qua  đập  nước Xuân Dương ra Quốc lộ 1A tại ga Mỹ Lý huyện Diễn Châu. Tại xã Nghi Liên làm tuyến đường xuyên qua các xã Nghi Vạn, Hưng Tây nối với Đường 12 - 9 tại Thái Lão huyện Hưng Nguyên. Trong đợt làm giao thông, Nghi Hưng đã huy động một lực lượng lớn, dân quân và nhân dân tham gia hàng ngàn ngày công trên tuyến đường qua núi Riềng và các xã.
    Bước vào năm 1967, Nghi Hưng phát động phong trào tiếp tục thi đua sôi nổi với quyết tâm “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” với các phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”, phụ lão “Ba giỏi”, nông dân tay cày, tay súng. Phát huy truyền thống đoàn kết trong lao động, chiến đấu, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng nỗ lực hơn nữa trong việc dồn sức chuẩn bị tốt cho chiến đấu. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ buộc nhân dân phải huy động một lực lượng lớn lao động tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu nên lực lượng trực tiếp lao động trên đồng ruộng gặp nhiều khó khăn. Thời tiết hạn hán nặng, các hồ đập cạn kiệt nguồn nước, các loại cây trồng, vật tư phục vụ sản xuất khan hiếm nên diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều không đạt kế hoạch. Lương thực, thực phẩm, các loại hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống nhân dân thiếu thốn. Nhưng với tinh thần quyết tâm vượt khó, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, động viên, cổ vũ nhân dân chịu đựng gian khổ, quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hướng về miền Nam ruột thịt. Với tinh thần quyết tâm, tết Nguyên Đán năm 1967 giữa tiết Đại hàn, gió rét, hơn 350 đảng viên, đoàn viên thanh niên Nghi Hưng tham gia nạo vét kênh Nhà Lê để phục vụ sản xuất và vận chuyển hàng chi viện chiến trường miền Nam.
Đêm ngày 30 rạng ngày 31.1.1968, để phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, thực hiện chủ trương của tỉnh và huyện, Đảng ủy Nghi Hưng lại huy động nhân dân, lực lượng thanh niên xung phong, dân quân tự vệ tham gia vận tải hàng hóa phục vụ chiến trường miền Nam.
Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ đã bị phá sản hoàn toàn, ở miền Nam chúng tiếp tục hứng chịu những thất bại nặng nề trên các chiến trường. Ngày 31.3.1968, chúng tuyên bố “ném bom hạn chế” từ vĩ tuyến 20 trở vào nhằm tập trung lực lượng máy bay, tàu chiến dồn hòa lực, bom đạn cho dải đất hẹp Khu IV hòng ngăn chặn sự chi viện của nhân dân miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Trước sự đánh phá ác liệt của không quân, hải quân Mỹ, Huyện ủy đã chỉ đạo kịp thời cho các xã trong huyện thực hiện tốt nội dung thông báo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An “Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải chủ động và dũng cảm tiến lên… xây dựng tư tưởng dũng cảm, ngoan cường, quyết tâm đánh thắng địch; kiên cường bám trụ, bám đất, bám dân, dù địch đánh ác liệt đến mức nào cũng không nao núng, chạy dài. Phải tìm cách đánh tốt nhất, sáng tạo nhất, cách mạng để chiến đấu, bảo vệ và phát triển lực lượng tiêu diệt địch”. Tuyên bố ném bom hạn chế, đế quốc Mỹ tập trung dồn hỏa lực đánh phá yết hầu của hậu phương miền Bắc vùng Khu IV để ngăn chặn chi viện cho chiến trường miền Nam. Từ tháng 4 năm 1968, cùng với các xã trên tuyến Tỉnh lộ 534, dọc theo sông Cấm và cầu Phương Tích, cầu Cấm, Nghi Hưng là những trọng điểm bị đánh phá ác liệt. Quân dân Nghi Hưng một mặt tích cực tham gia sản xuất, một mặt chủ động bố phòng sẵn sàng đánh trả các đợt ném bom của Mỹ.
Trong tháng 6 năm 1968, vùng đất Nghi Hưng chịu 4 trận đánh phá của máy bay Mỹ: đánh vào vùng dân cư Thái Yên làm chết 2 người, cháy kho lúa của hợp tác xã và nhiều nhà dân; đánh vào vùng dân cư Hưng Vận làm chết 2 người, cháy nhiều nhà; đánh vào khu vực nhân dân đang sản xuất ngoài đồng làm chết 2 người và nhiều trâu, bò. Đội công trình I đang đào đắp đường giao thông bị máy bay Mỹ ném bom làm chết 4 người, 6 người bị thương. Ngay giữa lúc bom đạn còn rền vang, cấp ủy, chính quyền đã huy động các lực lượng có mặt kịp thời cấp cứu người bị thương chuyển về tuyến sau, lực lượng cứu nhà, tài sản xông pha trong khói bom dập cháy, lực lượng tìm kiếm cứu người sập hầm đã không ngại gian khổ, hi sinh có mặt dũng cảm cứu người.
Sau các đợt đánh phá của máy bay Mỹ, nhân dân Nghi Hưng lại chung tay vào giúp đỡ các gia đình bị thiệt hại tài sản, chia sẻ cùng các gia đình có người chết, bị thương. Một cuộc sơ tán các hộ dân vào vùng xa mục tiêu quân sự được triển khai, với tinh thần đoàn kết chia sẻ khó khăn nên trong thời gian ngắn đã ổn định được đời sống nhân dân, đảm bảo sản xuất. Tháng 7 năm 1968, máy bay Mỹ dùng bom bi đánh vào nhiều vùng dân cư làm chết 4 người, nhiều người bị thương và nhiều nhà dân bị cháy. Lực lượng dân quân xã tham gia cấp cứu người bị thương chuyển về trạm xá, tổ chức dập cháy, vận chuyển chôn cất người chết, sửa chữa nhà cửa, thu xếp tài sản.
Tháng 9 năm 1968, Đảng bộ tổ chức đại hội, bầu 9 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Phú Khiếng làm Bí thư, phân công đồng chí Đinh Thị Dung làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã và đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Đại hội nhấn mạnh: trong năm 1968, Đảng bộ và nhân dân đã có những nỗ lực phi thường, xây dựng quyết tâm cao cùng nhân dân cả nước đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Mặc dù đế quốc Mỹ liên tục đánh phá ác liệt vào địa phương, các kho lương thực, các trận địa phòng không, Tỉnh lộ 534, các tuyến đường liên xóm... với số lượng bom đạn hàng trăm tấn làm thiệt hại nhiều nhà cửa, tài sản, tính mạng của nhân dân. Nhưng nhân dân Nghi Hưng vẫn kiên cường bám trụ địa bàn, tích cực sản xuất và chiến đấu. Đặc biệt là công tác giao thông vận tải với tinh thần “Hai chống, ba thông”, “Xe chưa qua nhà không tiếc” nhân dân Nghi Hưng đã đóng góp cho giao thông vận tải hàng chục cái nhà, hơn 30 xe kiến an, 3 xe đạp, hàng ngàn cây bạch đàn, phi lao, để chống lầy, làm hầm. Một lực lượng hơn 200 người tình nguyện vận chuyển gạo, thực phẩm từ cầu Phương Tích đi các huyện Đô Lương, Nam Đàn đảm bảo an toàn. Đào đắp trên 1.000 m3 đất đảm bảo giao thông trên sông Cấm, đào 2 km hào giao thông, hầm đất đá xung quanh các đồi, đào đắp 50 ụ pháo cho bộ đội pháo binh đóng trên địa bàn. Cùng với vận chuyển hàng hóa, vũ khí, lực lượng dân quân xã tham gia ứng cứu kịp thời cho nhân dân trong xã và các đơn vị bộ đội, nhân dân xã bạn lên sơ tán.
Để tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu cho cuộc chiến tranh chống Mỹ ở hai miền Nam - Bắc, phục vụ giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường, ở lực lượng lao động sản xuất nông nghiệp thiếu trầm trọng. Xã đã huy động tối đa sức người vào tham gia phát triển sản xuất. Người già, trẻ em đều phải tham gia sản xuất, mỗi người đều phải cố gắng với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng các phong trào, chiến dịch do tỉnh phát động như: “Mộ Đức quật khởi”, “Lam Trà nổi sóng” đóng góp hàng ngàn ngày công tham gia đắp bờ giữ nước, khơi mương chống hạn, tiêu úng. Từ năm 1965 đến năm 1968, nhân dân Nghi Hưng cùng với dân quân toàn huyện tham gia đắp công trình thủy lợi hồ Khe Làng. Với khẩu hiệu “đồng ruộng là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”, hợp tác xã đã tổ chức phân công lại lực lượng lao động cho phù hợp với sản xuất trong điều kiện có chiến tranh, lao động phải thường xuyên bám trụ ruộng đồng, tranh thủ thời tiết, thời gian, nghiên cứu quy luật đánh phá của địch để tổ chức sản xuất, đảm bảo gieo trồng hết diện tích, thâm canh gối vụ. Trong chăn nuôi vừa tích cực nuôi gia súc, gia cầm tại các hộ gia đình và trại chăn nuôi tập thể, bảo đảm bình quân có 2 con lợn/hộ, lúa mùa đạt 15 tạ/ha, khoai 30 tạ/ha. Nhờ tích cực sản xuất nên nghĩa vụ lương thực, thực phẩm Nhà nước giao hàng năm xã đều hoàn thành. Trong điều kiện chiến tranh, hợp tác xã mua bán góp phần quan trọng để bảo đảm việc cung cấp phân phối các hàng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân. Văn hóa xã hội phát triển, việc học tuy khó khăn do phân tán nhưng thầy cô giáo, học sinh đều cố gắng duy trì việc học thường xuyên. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, vệ sinh môi trường, các công trình giếng nước, nhà tắm, chuồng trâu, bò được bố trí, xây dựng hợp vệ sinh. Công tác hậu phương chăm sóc gia đình chính sách, bộ đội, dân công, thanh niên xung phong được cấp ủy, chính quyền, tổ chức quan tâm cả về tinh thần và vật chất để động viên người ngoài mặt trận và người ở nhà tích cực sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Thực hiện chủ trương của Trung ương động viên lực lượng thanh niên tham gia nhập ngũ, nhiều thanh niên Nghi Hưng đã tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 1.11.1968, bị thất bại nặng nề ở hai miền Nam- Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ ta tại Pari.

        2.Khôi phục, phát triển kinh tế, chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969 - 1972)

Đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom ở miền Bắc là thời cơ cách mạng mới, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sang thời bình. Ngày 3.11.1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và kêu gọi đồng bào cả nước “Chúng ta đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc song đó mới chỉ là bước đầu, đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt... hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”. Thực hiện lời kêu gọi của Người, nhân dân Nghi Hưng vừa tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh vừa hăng hái thi đua sản xuất, chuẩn bị mọi điều kiện để đánh trả và đánh thắng mọi âm mưu của kẻ thù.
Ngày 21.8.1970, Đại hội Đảng bộ xã được tổ chức. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Khiếng giữ chức vụ Bí thư; đồng chí Ngô Đức Tý được phân công chức vụ Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đại hội đã kiểm điểm, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, biểu dương khen thưởng các cá nhân tập thể xuất sắc trong chiến đấu và lao động sản xuất. Đồng thời, đề ra nhiệm vụ tập trung đẩy mạnh khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế nông nghiệp, sản xuất hàng hóa, trên cơ sở bố trí hợp lí cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
Thực hiện chủ trương của huyện, tháng 7 năm 1970, Ban Chấp hành Đảng bộ họp quyết định tiến hành sáp nhập hợp tác xã chuyển từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn. Tháng 11 năm 1970 tổ chức đại hội sáp nhập các hợp tác xã nông nghiệp lên quy mô toàn xã, có 300 đại biểu đại diện cho 2.000 xã viên về dự tại đình Hưng Vận trong thời gian 2 ngày. Đại hội đã xác định nhiệm vụ: mở rộng diện tích gieo trồng từ 320 ha lên 520 ha. Đưa sản lượng năm 1970 đạt 650 tấn đến năm 1973 đạt 1.000 tấn, phát triển các ngành nghề khác đưa tổng giá trị sản lượng năm 1970 đạt 260.000 đồng. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Văn Viết làm Chủ nhiệm.
Ngay sau khi sáp nhập, hợp tác xã quy mô lớn đã tiến hành quy hoạch khoanh vùng ruộng đất, cân đối phân bố lao động, trâu bò cày kéo, tập trung cải tạo hệ thống thủy lợi, tạo điều kiện cho việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Các ngành nghề được tổ chức lại, mở rộng thêm như đội lâm nghiệp, đội chăn nuôi, đội công trình, tổ nề xây dựng... Toàn xã phát động mở rộng diện tích canh tác tập trung rà phá bom đạn chưa nổ, san lấp hố bom. Tiến hành công hữu 8 ha đất rẫy chè ở chân núi Riềng. Tổ chức khai hoang phục hóa, tăng vụ trồng xen đưa diện tích gieo trồng từ 852 ha lên 1.054 ha. Công tác thủy lợi cũng được chú trọng. Xã đã huy động nhân dân đào kênh mương đưa nước từ sông Sâu lên vùng Thái Nguyên, đào đắp 8.000 m3 đất lấy nước bơm tươi cho đồng cao, đắp lại khe Dơi, đập Chùa Lau, đập tràn khe Xiêm... Về chăn nuôi, xã khuyến khích, động viên nhân dân phát triển chăn nuôi theo hộ gia đình. Xây dựng hợp tác xã chăn nuôi tập thể ở trại Mít, với 3.000 con gia cầm, 100 lợn nái, đàn bò trên 900 con, trại nuôi dê với 86 con. Xây dựng 2 lò ngói công suất 14.000 viên lò, 1 lò vôi, 1 lò gạch.
Thực hiện chính sách xã hội, Đảng bộ tập trung chỉ đạo việc giúp đỡ các gia đình chính sách như: ưu tiên trước nhận nuôi bò cày, sửa sang củng cố nhà cửa bị thiệt hại trong chiến tranh, tham gia giúp đỡ ngày công... Công tác xây dựng cơ sở vật chất cho hợp tác xã và giáo dục, y tế được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, nhà kho đội sản xuất, nhà sinh hoạt xóm được đầu tư củng cố xây dựng. Trạm y tế xã được củng cố đảm bảo cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu của nhân dân. Quan tâm đầu tư xây dựng các trường học, nhà trẻ, mẫu giáo đảm bảo việc dạy và học của các thầy cô giáo và học sinh. Kinh phí phục vụ cho xây dựng các công trình được huy động từ nguồn tích lũy hợp tác xã và đóng góp của nhân dân. Nhờ phát huy tốt sức mạnh của toàn dân nên Nghi Hưng đã nhanh chóng ổn định và phát triển mọi mặt. Trước yêu cầu phục vụ cho chiến trường, tháng 9 năm 1970, Nghi Hưng đã vận động nam nữ thanh niên tình nguyện đi dân công hỏa tuyến phục vụ cho chiến trường miền Nam 30 người, chiến trường Lào 45 người. Đến tháng 3 năm 1971, Nghi Hưng tiếp tục động viên 2 đợt với 40 người tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến trường.
Tháng 7 năm 1971, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 13 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Phú Khiếng làm Bí thư, phân công đồng chí Phạm Văn Tương làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đại hội đề ra nhiệm vụ: tập trung đẩy mạnh sản xuất toàn diện, tăng tích lũy cho các hợp tác xã, phát huy mọi tiềm năng của địa phương, thực hiện tốt nghĩa vụ và nhiệm vụ Nhà nước giao, sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu của kẻ thù, tích cực chi viện cho chiến trường.
Giữa tháng 7 năm 1971, Đảng bộ ra Nghị quyết lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị của địa phương trong tình hình mới, trong đó tập trung vào các nhiệm vụ: đẩy mạnh sản xuất toàn diện, tăng tích lũy cho các hợp tác xã, phát huy mọi tiềm năng của địa phương, thực hiện tốt nghĩa vụ và nhiệm vụ Nhà nước giao, sẵn sàng chiến đấu chống mọi âm mưu của kẻ thù, tích cực chi viện cho chiến trường. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện tháng 4 năm 1971 và Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ xã, Đảng bộ Nghi Hưng đã lãnh đạo nhân dân phát huy tinh thần quyết thắng trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ thi đua phát triển sản xuất, chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng đánh thắng mọi âm mưu của kẻ thù.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất; Cách mạng khoa học kĩ thuật; Cách mạng tư tưởng văn hóa, Đảng bộ đã tổ chức cho toàn thể đảng viên và nhân dân tham gia học tập. Đồng thời phát động phong trào thi đua sôi nổi toàn diện. Trong hợp tác xã tổ chức thực hiện 3 khoán, 3 quản; thu hồi các loại đất cho hợp tác xã quản lí; khai hoang phục hóa mở rộng diện tích; chú trọng thâm canh các loại cây trồng lúa, lạc, khoai, ngô. Đẩy mạnh chăn nuôi phát triển thành ngành chính, tập trung trồng cây phủ xanh các đồi núi, đất hoang không có khả năng sản xuất. Để tăng sản lượng lương thực, xã chủ trương đẩy mạnh thâm canh, đưa các loại giống lúa mới như: Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8 vào sản xuất, tích cực làm bèo hoa dâu, làm phân hữu cơ. Đặc biệt, công tác làm thủy lợi được đặt lên hàng đầu. Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo Ủy ban hành chính xã đã huy động một lực lượng lớn lao động tập trung làm thủy lợi đào đắp các hồ đập, bàu tràm, hệ thống kênh mương tưới tiêu, đảm bảo vừa giữ nguồn nước có khả năng chống hạn vừa tiêu úng, chống trôi, lở đất khi có mưa lụt. Công tác cải tạo đất, mở rộng diện tích canh tác, khoanh vùng thâm canh các loại cây trồng được đẩy mạnh.
Thực hiện khẩu hiệu “mạnh về quốc phòng, giàu về kinh tế, vững về chính trị, đẹp về xã hội”, toàn xã là một công trường lớn vừa tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh vừa tích cực phát triển sản xuất, cải tạo, xây dựng hạ tầng nông thôn như: làm thủy lợi, phân bón, xây dựng giao thông nông thôn tu sửa, làm thêm các trục đường nối các xóm, xây dựng các công trình phục vụ đời sống như nhà tắm, nhà vệ sinh. Các trường học được đầu tư xây dựng. Chất lượng giáo dục được quan tâm trên cả 3 mặt: đức dục, trí dục, mĩ dục. Thực hiện phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn do Đảng ủy phát động, các tổ chức đoàn thể chính trị đã tích cực hưởng ứng hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện nếp sống mới, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới hỏi, cầu cúng... phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong nông thôn.
Cuối năm 1971, đầu năm 1972, Mỹ liên tiếp thất bại ở các chiến trường miền Nam và Lào, chính quyền ngụy Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn tình thế, chúng tăng cường lực lượng tham chiến ở miền Nam, đồng thời chuẩn bị kế hoạch đánh phá miền Bắc lần thứ hai. Trước tình hình đó, thực hiện sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, Đảng ủy Nghi Hưng lãnh đạo nhân dân khẩn trương xây dựng, củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Các lực lượng dân quân tự vệ, trực chiến tích cực xây dựng công sự sẵn sàng chiến đấu, lực lượng bảo đảm giao thông, cứu thương, sơ tán… được củng cố, nhiệm vụ bố phòng tránh bom đạn được tập trung chuẩn bị ở mức cao.
Ngày 6.4.1972, đế quốc Mỹ tuyên bố dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai. Ngày 10.4.1972, chúng huy động một lực lượng lớn không quân có máy bay B52 ném bom rải thảm xuống nhiều nơi tại thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nghi Lộc. Nằm trên trục giao thông quan trọng, Nghi Hưng là một trong những địa điểm bị đánh phá ác liệt. Chấp hành chỉ thị của Quân khu IV, Tỉnh ủy Nghệ An, Huyện ủy Nghi Lộc đã tổ chức Hội nghị xây dựng phương án tác chiến, phòng không sơ tán. Để bảo đảm cho sản xuất, chiến đấu cũng như tài sản, tính mạng của nhân dân các xã nằm trong vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, Hội nghị chủ trương phải tập trung làm tốt nhiệm vụ sơ tán; các xã khác tăng cường công tác xây dựng hầm hào đảm bảo an toàn cho người, tài sản, gia súc và sẵn sàng sơ tán khi có lệnh. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Nghi Hưng vừa tổ chức cho nhân dân sơ tán khỏi các vùng trọng điểm bị địch đánh phá, xây dựng các phương án khi có tình huống xảy ra vừa huy động lực lượng, chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng đón tiếp nhân dân các xã khác sơ tán đến. Tất cả các hoạt động trong xã luôn đặt trong trạng thái sẵn sàng mức cao. Hàng ngàn mét hào giao thông, hầm hào trú ẩn, các công sự chiến đấu, trực chiến được đào đắp, mọi lực lượng đều tham gia phục vụ chiến đấu như vận tải hàng hóa, đạn dược, chuẩn bị tốt các phương tiện chữa bệnh và cấp cứu người… Hợp tác xã mua bán chuẩn bị các mặt hàng dân sinh phục vụ tốt cho nhu cầu của nhân dân và nhiệm vụ quốc phòng, sẵn sàng đáp ứng khi có tình huống xảy ra. Tháng 5 năm 1972, với nhiều tốp máy bay Mỹ liên tục đánh phá Quốc lộ 1A, phía nam cầu Cấm làm đường hư hỏng nặng, mạch máu giao thông bị tắc nghẽn, nhận lệnh của huyện, Nghi Hưng đã huy động hơn 200 người làm từ 19 giờ tối đến 4 giờ sáng, vận động nhân dân góp 2.000 cây tre, xi lao, bạch đàn, hàng chục tấn rơm rạ, làm hàng trăm tấm phên tre, nứa ra đào đắp đường, chống lầy thông đường cho xe qua và còn ở lại thêm 7 ngày trực và sửa chữa đường để bảo đảm an toàn giao thông. Tháng 6 năm 1972, Mỹ dùng các loại máy bay ném bom hiện đại ném bom vào làng Yên Lãng, Hưng Vận làm 10 người chết, 15 người bị thương, hàng chục nóc nhà bị thiêu cháy. Tháng 9 năm 1972, máy bay Mỹ   lại
ném bom vào làng vào các làng Tam Đa, Hưng Vận. Trong năm 1972, Nghi Hưng đã phải hứng chịu nhiều đợt ném bom của đế quốc Mỹ. Các lực lượng dân quân, trực chiến cùng với bộ đội phòng không đã tổ chức đánh trả quyết liệt. Các lực lượng phục vụ chiến đấu, phòng không sơ tán được chuẩn bị chu đáo nên hạn chế được nhiều thiệt hại về người và tài sản.
  Năm 1972, với quyết tâm cao độ, Đảng bộ, nhân dân Nghi Hưng đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu, hoàn thành mọi chỉ tiêu Nhà nước giao. Năm 1972 cũng là năm mà do yêu cầu của chiến trường, Nghi Hưng đã tổ chức động viên nhiều thanh niên nhập ngũ, thanh niên xung phong, 30 dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến trường. Đồng thời cũng huy động một lực lượng lớn đi dân công làm giao thông vận tải, thủy lợi trên các công trường của huyện, tỉnh. Tuy gặp nhiều khó khăn trong đời sống và lao động sản xuất nhưng với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn, gian khổ, bom đạn ác liệt của đế quốc Mỹ, phát huy cao độ lòng yêu nước của nhân dân tích cực sản xuất, tranh thủ mọi khoảng thời gian không kể ngày đêm, thời tiết để tập trung sản xuất. Nhờ các biện pháp cải tạo đất làm phân xanh, phân bùn, bón vôi, bèo hoa dâu các giống lúa, khoai có năng suất được đưa vào sản xuất nên năng suất, sản lượng cao. Trong chăn nuôi, chú trọng phát triển nuôi lợn tại các hộ gia đình và tập thể, tổ chức nuôi bò kèm để làm tốt nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước và cân đối được lương thực cho nhân dân. Công tác văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển. Toàn xã xây dựng được 118 gia đình kiểu mẫu, số lượng học sinh tốt nghiệp đạt 90%, đội ngũ y tế xã làm tốt công tác phòng chống chữa bệnh cho nhân dân và kịp thời cấp cứu cho bộ đội, nhân dân trong bom đạn của chiến tranh. Năm 1972, nhân dân Nghi Hưng còn dồn sức thực hiện nhiệm vụ tiếp đón nhân dân các xã ở vùng xuôi và thành phố Vinh sơ tán đến. Nhân dân trong xã đã đóng góp hàng trăm ngày công, hàng chục tấn lương thực, quần áo, giày dép, tranh tre… giúp nhân dân các xã lên sơ tán trên địa bàn sớm ổn định đời sống.
Trước những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, tháng 10 năm 1972, Mỹ ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào và tiếp tục nối lại đàm phán ở Pari. Đây là thủ đoạn chiến tranh nguy hiểm của đế quốc Mỹ nhằm tập trung lực lượng lớn máy bay bom đạn đánh vào các trọng điểm Khu IV để ngăn chặn chi viện cho chiến trường miền Nam. Ngay sau đó, âm mưu của đế quốc Mỹ đã lộ rõ, chúng cho máy bay liên tục đánh phá khắp các vùng trọng điểm trên miền Bắc. Đặc biệt, chúng huy động cả máy bay chiến lược B52 rải thảm nhiều nơi gây cho ta nhiều khó khăn và thiệt hại về người, tài sản. Nhưng với ý chí kiên cường, dũng cảm quân và dân ta đã đánh bại âm mưu của đế quốc Mỹ. Tháng 11 năm 1972, máy Mỹ ném bom đánh phá vùng cầu Cấm, Phương Tích, đánh vào các làng Hưng Vận, Tam Đa, Yên Lãng, nhờ làm tốt công tác di tản dân cư nên hạn chế được thiệt hại về người và tài sản, các lực lượng trực chiến phòng không đã đánh trả quyết liệt.
Để kịp thời động viên quân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu, Đảng bộ đã họp, đánh giá những nỗ lực, quyết tâm và thành tích của quân dân Nghi Hưng trong sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc  Mỹ, đề ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, phục vụ chiến đấu, củng cố lực lượng, làm tốt công tác bố phòng, di tản dân cư ở vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, phối hợp với các lực lượng sẵn sàng đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ.
Ngày 18.12.1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược với quy mô lớn bằng không quân vào miền Bắc tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng. Qua 12 ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân dân Hà Nội, Hải Phòng đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ trong đó có 34 máy bay ném bom chiến lược B52. Bị thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ buộc phải nối lại đàm phán với ta tại Pari.
Thất bại trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2 và trên chiến trường miền Nam, ngày 27.1.1973, đế quốc Mỹ buộc phải kí Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam. Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân Nghi Hưng lại bước vào một thời kì mới, thời kì khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh phát triển sản xuất, cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa, tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.
  1. Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội góp phần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1973 - 1975)
  Hiệp định Pari được kí kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân Nghi Hưng hăng hái thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới: quyết tâm khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực lao động phát triển sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội. Ngày 14.7.1973, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 11 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Phạm Văn Tương giữ chức vụ Bí thư, phân công đồng chí Bùi Văn Thảo làm Chủ tịch Ủy ban hành chính.
   Nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại của Nghi Hưng là hết sức nặng nề. Qua 2 lần chiến tranh phá hoại với hàng trăm trận bị đánh phá bởi bom đạn của không quân Mỹ, hàng ngàn tấn bom đạn cày xới khắp các xóm làng, đường giao thông, ruộng đồng... nhiều nhà cửa, kho tàng, cầu cống hư hại, các hố bom làm hoang hóa lớn diện tích nông nghiệp, hệ thống hầm hào giao thông, hầm trú ẩn, công sự chiến đấu... gây khó khăn cho giao thông và sản xuất. Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng là phát huy tinh thần làm chủ, tự lực tự cường, nhanh chóng khôi phục và phát triển sản xuất theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa, tập trung giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Đảng bộ đã phát động phong trào thi đua, khơi dậy truyền thống cách mạng trong nhân dân. Toàn dân dồn sức khai hoang, phục hóa, san lấp hố bom, hầm hào giao thông, quy tập mồ mả, ra quân làm thủy lợi nội đồng, đào đắp các hồ đập, bàu… đào đắp con đập nối liền Nghi Hưng với Nghi Đồng. Nhằm mở rộng diện tích đất sản xuất và tạo điều kiện cho nhân dân thuận lợi trong xây dựng phát triển kinh tế, xã đã tổ chức huy động lực lượng nhân dân các xóm tham gia giúp đỡ các hộ dân sống ở trại Hóp di chuyển lên vùng khe Cù, các hộ dân ở trại Bà Thiếu lên vùng núi Dẻ. Để có năng suất sản lượng cao, xã đã vận động nhân dân tích cực áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật đối với các loại cây trồng, mở rộng ngành nghề lâm nghiệp, tập trung phát triển chăn nuôi tập thể và hộ gia đình. Nhiệm vụ khôi phục cơ sở vật chất được chú trọng. Các trục đường giao thông liên xóm, các kho lương thực của hợp tác xã, trạm y tế, trường học… nhanh chóng được nhân dân đóng góp ngày công, vật liệu để tu sửa. Hợp tác xã thực hiện khoán chỉ tiêu, tổ chức phân công lại lao động hợp lí, gắn trách nhiệm cán bộ phụ trách từng lĩnh vực, kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Ngày 15.5.1974, Đảng bộ xã tổ chức Đại hội. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí; bầu đồng chí Bùi Văn Thanh giữ chức vụ Bí thư, phân công đồng chí Bùi Văn Thảo giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, toàn thể đảng viên và nhân dân ra quân trên mặt trận sản xuất, xây dựng, văn hóa xã hội. Đại hội đề ra chỉ tiêu cụ thể: diện tích lúa 760 ha, sản lượng là 1.000 tấn, khoai 410 tấn, trong chăn nuôi phấn đấu toàn xã có 900 con lợn trong đó có 150 lợn nái, 5.000 con vịt; về văn hóa xã hội: mỗi đội sản xuất có 1 nhà trẻ, 2 đội có 1 lớp mẫu giáo, 3 đội có 1 lớp vỡ lòng, các hộ gia đình có nhà tắm; tiến hành phổ cập cấp 1, mở rộng học cấp 2 cho cán bộ, đảng viên; mở rộng các trục đường giao thông liên xóm, liên xã, huy động hàng vạn ngày công làm giao thông nông thôn và thủy lợi. Hợp tác xã mua bán tích cực thực hiện thu mua hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm của nhân dân. Đối với công tác xây dựng Đảng, tổ chức học tập, mỗi đảng viên phải nhận một nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo các hoạt động sản xuất, xã hội. Để đạt được các chỉ tiêu đề ra, nhiều giải pháp đã được cấp ủy, chính quyền tổ chức thực hiện huy động tốt nội lực trong nhân dân nên đã tạo được chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực.
Cuối năm 1974, nhận định tình hình có nhiều điều kiện thuận lợi là thời cơ lớn cho cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng quyết định giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong phong trào chung, nhân dân Nghi Hưng tích cực thi đua sản xuất, đóng góp sức người, sức của cao nhất cho mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam. Phát huy truyền thống cách mạng, thanh niên hăng hái lên đường nhập ngũ. Với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, nhân dân xã Nghi Hưng tích cực đóng góp lương thực, thực phẩm vượt chỉ tiêu, kế hoạch Nhà nước giao. Từ tháng 5 năm 1974 đến năm 1975, thực hiện chủ trương của huyện, xã đã thành lập 1 đoàn dân công gồm 42 người tham gia làm đường Tỉnh lộ 534, Quốc lộ 49. Suốt từ năm 1973 đến năm 1975, xã đã tổ chức 65 người cùng lực lượng của huyện, tỉnh tham gia làm đường giao thông từ Diễn An đến cầu Cấm phục vụ công tác chi viện chiến trường miền Nam.
Nhận định thời cơ cách mạng đã đến, tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tổng tiến công giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng nhân dân cả nước, nhân dân Nghi Hưng lại chuyển sang một trang mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG VI

NGHI HƯNG THAM GIA XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC, THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI

ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1975 - 2020)

I.XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Chiến thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Đất nước hoàn toàn độc lập, hòa bình thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hòa trong niềm vui chung của toàn dân tộc, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng long trọng tổ chức lễ mít tinh mừng chiến thắng và phát động phong trào thi đua lao động sản xuất xây dựng quê hương giàu mạnh.
   Mở đầu cho phong trào thi đua sản xuất là chiến dịch toàn dân ra quân làm thủy lợi, nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, tập trung khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích canh tác, đào đắp kênh mương, khe suối để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các vùng đất cưỡng, đất trũng được đào đắp, san lấp thành đồng sản xuất hai vụ lúa. Toàn xã đã huy động hàng ngàn ngày công để đắp bờ giữ nước, cải tạo ruộng đất để sản xuất. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn xã đã đào đắp hàng ngàn mét khối đất phục vụ cho việc mở rộng diện tích sản xuất. Cùng với phát triển sản xuất, phong trào văn hóa - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục và y tế, thực hiện văn minh nông thôn, tiếp tục củng cố lực lượng quốc phòng, an ninh và tăng cường công tác xây dựng Đảng đã được địa phương quan tâm, chú trọng.
Tháng 9 năm 1975, Đại hội Đảng bộ được tổ chức, bầu 11 Ủy viên Ban Chấp hành,  đồng chí Bùi Văn Thảo được bầu làm Bí thư, đồng chí Lê Xuân Dũng làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban hành chính. Đại hội đánh giá: trong năm qua, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã nỗ lực vừa hàn gắn vết thương chiến tranh vừa tập trung phát triển sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, cải thiện đời sống nhân dân, hoàn thành các chỉ tiêu Nhà nước. Đồng thời, Đại hội cũng đề ra các phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới là: tiếp tục mở rộng diện tích canh tác, phát triển chăn nuôi, chăm lo phát triển y tế giáo dục, củng cố an ninh quốc phòng, cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân. Thực hiện kế hoạch huyện giao, Nghi Hưng phát động nhân dân trong xã tham gia giúp đỡ các xóm 9, 10, 11 của làng Mỹ Hòa (Nghi Mỹ) để di chuyển nhà ở lên vùng đồi nhằm lấy đất sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện các mục tiêu Đại hội đề ra, nhân dân xã tích cực tham gia phát triển sản xuất, huy động hàng ngàn ngày công khai hoang phục hóa các vùng đất cưỡng, đất ven khe suối, dọc sông Cấm để mở rộng diện tích canh tác. Bên cạnh đó, nhân dân còn trồng các loại cây công nghiệp như bạch đàn, phi lao…; đồng thời, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hộ gia đình. Mặt khác, Nghi Hưng đã tập trung đầu tư nâng cấp, sửa chữa một số cơ sở hạ tầng như: trường học, kho hàng, cửa hàng, hợp tác xã nông nghiệp.
Ngày 02.7.1976, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Quốc hội khóa IV đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 12 năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980). Nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế nông nghiệp, tập trung giải quyết vấn đề lương thực, tỉnh Nghệ An đã chủ trương củng cố, xây dựng hệ thống thủy lợi. Tháng 10 năm 1976, Nghi Hưng huy động một lực lượng lớn lao động tham gia làm thủy lợi trên công trường Vách Bắc của tỉnh.
Tháng 12 năm 1976, nhân dân Nghi Hưng cùng nhân dân các xã trong huyện xây dựng công trình thủy lợi ở Nghi Vạn và được Ủy ban nhân dân huyện tặng cờ thi đua. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng bộ Nghi Hưng tập trung cao trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo trên các lĩnh vực, phát huy quyền làm chủ nhân dân, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất như lúa đảm bảo mật độ 38 khóm/m2, đưa diện tích trồng lúa lên 900 mẫu, ngô 200 mẫu, trong chăn nuôi giao chỉ tiêu một lao động nuôi 1 con lợn có trọng lượng 50 kg trở lên, phát triển nuôi bò. Tổng sản lượng lương thực quy đổi năm 1976 toàn xã đạt 1.700 tấn, hoàn thành chỉ tiêu giao thực phẩm cho Nhà nước 13 tấn. Đảng bộ mở rộng đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thực hiện 10 tiêu chuẩn xây dựng con người mới, xây dựng “Quy ước nông thôn’ .
Đầu năm 1977, một đợt hạn hán kéo dài làm các hồ đập, sông ngòi trên địa bàn huyện không còn nước để phục vụ sản xuất. Huyện chủ trương phát động toàn dân chống hạn, ngăn sông giữ nước ngọt, ngăn nước mặn. Cùng với nhân dân các xã, nhân dân Nghi Hưng huy động một lực lượng lớn lao động tham gia làm thủy lợi tại một số nơi như: công trình sông Cấm của huyện, công trình thủy lợi sông Nghèn - Hà Tĩnh và làm thủy lợi nội đồng của xã. Tuy nhiên, nắng hạn vừa qua thì lụt lớn lại đến làm cho vụ đông xuân (1977 - 1978) các loại cây trồng trên địa bàn xã bị tàn phá, mất mùa lớn nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở các xóm rơi vào hoàn cảnh thiếu đói nghiêm trọng.
   Tháng 4 năm 1977, Đại hội Đảng bộ xã được tổ chức, bầu 11 Ủy viên Ban Chấp hành, đồng chí Lê Phạm Hoàn được bầu làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Đức làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Sau Đại hội, Đảng bộ tập trung thực hiện nhiệm vụ giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân, tăng nhanh sản lượng cây công nghiệp, mở rộng ngành nghề, tạo bước ổn định, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
  Đầu năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam xảy ra, thực hiện chủ trương xây dựng khu vực phòng thủ theo phương án của huyện, Nghi Hưng đã khẩn trương tổ chức cho đảng viên và nhân dân học tập, quán triệt tinh thần và nhiệm vụ mới, xây dựng phương án sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, nhân dân Nghi Hưng đã nỗ lực vượt qua khó khăn, hăng hái tham gia công tác bố phòng chiến đấu bảo đảm an ninh chính trị, trật tự địa phương, thực hiện tốt các chỉ tiêu, nghĩa vụ Nhà nước giao, hàng trăm thanh niên đã lên đường nhập ngũ tham gia chiến đấu ở các chiến trường.
 Tháng 6 năm 1979, Đảng bộ tổ chức Đại hội và bầu 15 Ủy viên Ban Chấp hành. Đại hội bầu đồng chí Lê Xuân Dũng giữ chức vụ  Bí thư Đảng bộ, phân công đồng chí Hoàng Văn Đức làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội đề ra nhiệm vụ là tiếp tục củng cố an ninh quốc phòng, đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, phát triển kinh tế hợp tác xã toàn diện, nâng cao đời sống nhân dân về vật chất và văn hóa, tăng cường công tác xây dựng Đảng trong sạch, xây dựng các tổ chức quần chúng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.
Mặt khác, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo trong sản xuất nông nghiệp kết hợp giữa chuyên canh với trồng xen, gối vụ làm cho hệ số sử dụng ruộng đất lên cao, góp phần làm tăng nhanh tổng sản lượng lương thực. Việc trồng cây gây rừng, nông lâm kết hợp được đẩy mạnh, nhờ đó Lâm trường Thần Vũ kết hợp với hợp tác xã dần dần phủ xanh các đồi núi trọc, đất hoang. Chủ trương “củng cố hợp tác xã, xây dựng cơ sở nông thôn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” được Huyện ủy chỉ đạo làm điểm ở 4 xã và mở rộng ra toàn huyện.
Tháng 7 năm 1981, Đại hội Đảng bộ xã được tổ chức. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí, bầu đồng chí Bùi Hữu Hòa làm Bí thư, phân công đồng chí Lê Xuân Dũng làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội xác định vấn đề trọng tâm, cấp bách là lương thực thực phẩm, trên cơ sở phát triển nông nghiệp bằng cách thâm canh, xen cách gối vụ, khai thác hết mọi tiềm năng đất đai, đưa nhanh các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, các loại giống lúa mới năng xuất cao thay thế phù hợp với từng vùng đất đai; phát triển các ngành, nghề; thành lập đội chuyên khoán sản phẩm đến từng lao động; xây dựng quyền làm chủ trong sản xuất, từng vụ nộp đủ công điểm theo lao động nông nghiệp để phân phối sản phẩm.
Thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW ngày 13.1.1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động trong các hợp tác xã. Tất cả các nhóm và người lao động sau khi nhận khoán đều phát huy cao tính năng động trong việc tìm tòi kinh nghiệm, tiết kiệm chi phí sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật vào thâm canh tăng năng suất, phấn đấu vượt khoán để tăng thu nhập cho mình. Lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được kết hợp chặt chẽ, tạo ra động lực mới trong phát triển nông nghiệp. Chăn nuôi gia súc để tăng sức cày kéo, tăng nguồn phân bón, tận dụng hết diện tích canh tác, thực hiện luân canh, gối vụ, trồng xen... trở thành ý thức của nhóm và người nhận khoán. Hệ số sử dụng ruộng đất nâng lên. Vụ hè thu chuyển thành chính vụ và thâm canh toàn diện. Diện tích trồng cây năng suất thấp được chuyển sang trồng cây đem lại năng suất cao. Việc giao đất, giao rừng, trồng cây đạt kết quả khá. Đàn lợn, đàn gia cầm tăng nhanh.
 Thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng cho người lao động đã tạo động lực kích thích cho mọi người tích cực tham gia lao động, bằng sự năng động, sáng tạo và huy động nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, người lao động được phát huy cao quyền làm chủ của mình. Vì thế, sản lượng lương thực tăng nhanh, làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước, thu nhập của xã viên ngày càng nâng cao. Bên cạnh đó, lĩnh vực chăn nuôi được phát triển theo hộ gia đình dưới hình thức gia công nên mọi gia đình đều có điều kiện thuận lợi phát triển đàn bò, đàn lợn. Bằng những kết quả đạt được, Nghi Hưng được đánh giá là một trong những xã có nhiều chuyển biến tốt trong xây dựng hợp tác xã của huyện Nghi Lộc.
   Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy Đảng, cách điều hành quản lí của Ủy ban nhân dân xã và hợp tác xã nên kinh tế Nghi Hưng đã có bước phát triển mạnh trên nhiều mặt, tạo điều kiện thuận lợi để huy động đầu tư cho các hoạt động văn hóa, xã hội. Công tác chăm sóc và khám chữa bệnh cho nhân dân được quan tâm thực hiện, trạm y tế xã ngày càng làm tốt trong công tác khám và điều trị sức khỏe cho nhân dân. Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định, những mặt tiêu cực, tệ nạn xã hội dần được loại bỏ, các vụ việc xảy ra kịp thời giải quyết. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân luôn được củng cố, thực  hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương, toàn Đảng bộ không có đảng viên yếu kém.
Ngày 18.10.1982, cơn bão số 7 đổ bộ vào Nghệ Tĩnh đã gây ra nhiều thiệt hại cho người, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Ở Nghi Hưng, hàng trăm gia đình có nhà bị đổ, tốc mái, hàng trăm ha lúa bị hư hỏng. Các công trình của tập thể bị tàn phá như: nhà kho, trạm xá, trường học, các hồ đập, hệ thống giao thông thuỷ lợi... Để khắc phục hậu quả của cơn bão, Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo nhân dân nỗ lực dồn sức khắc phục hậu quả cơn bão. Đảng bộ đã phân công cán bộ, đảng viên cùng với nhân dân phát huy tinh thần “tương thân tương ái”, đồng cam cộng khổ giúp nhau về tiền của, ngày công để sớm ổn định nơi ăn, chốn ở cho các gia đình bị thiệt hại. Ủy ban nhân dân xã đã huy động mọi nguồn lực tu sửa các công trình, trường học, trạm xá phục vụ cho việc học tập của con em và khám chữa bệnh cho nhân dân. Đồng thời tập trung triển khai khôi phục sản xuất, giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và đời sống cho nhân dân. Với tinh thần tự lực tự cường và sự giúp đỡ của nhân dân cả nước, của các cấp, ngành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã sớm vượt qua được khó khăn ban đầu để ổn định sản xuất và đời sống nhân dân.
    Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân trong thời gian này là tập trung tổ chức, chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XX: vấn đề hàng đầu là sản xuất nông nghiệp, trọng tâm cấp bách là lương thực, hàng thiết yếu, hàng tiêu dùng, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Hậu quả cơn bão số 7 năm 1982 và các trận lụt tiếp theo đã làm cho tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân Nghi Hưng gặp nhiều khó khăn. Lương thực thiếu hụt trầm trọng, nhiều hộ gia đình rơi vào tình trạng thiếu đói. Để đảm bảo đời sống cho nhân dân, hợp tác xã đã làm tốt công tác dự trữ lương thực, tổ chức phân phối các loại lương thực như: ngô, khoai, sắn cho các gia đình trong những tháng giáp hạt; đồng thời tích cực phát động nhân dân đẩy mạnh trồng các loại rau màu ngoài đồng, trong vườn như: bầu bí, rau cải... Ủy ban nhân dân xã tiếp tục tổ chức và chỉ đạo việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động một cách chặt chẽ, vận động nhân dân phát huy tính năng động sáng tạo, tiết kiệm chi phí sản xuất, áp dụng khoa học kĩ thuật vào việc thâm canh tăng sản xuất, phong trào thi đua sản xuất vượt khoán, kết hợp giữa lợi ích tập thể và cá nhân đã tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế trên các lĩnh vực.
Tháng 6 năm 1983, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 15 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Bùi Văn Kế làm Bí thư, phân công đồng chí Lê Xuân Dũng làm Phó  Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội đã đánh giá và biểu dương những nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng trong vấn đề khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống nhân dân, tập trung phát triển sản xuất, củng cố và xây dựng Đảng. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết là: giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân; tập trung đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi; làm tốt công tác xây dựng Đảng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định nông thôn; thực hiện tốt các chính sách xã hội. Biện pháp đầu tiên được Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã tập trung chỉ đạo là đẩy mạnh công tác thủy lợi... Ngoài huy động hàng ngàn ngày công nạo vét và đào đắp kênh mương tưới tiêu trên các cánh đồng, tu sửa đê ngăn mặn, xã đã điều lực lượng “Đội 202” và “Đội thanh niên tình nguyện xây dựng quê hương” tham gia công trình thủy lợi đắp đập Ồ Ồ ở xã Nghi Đồng.
Đồng thời với xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, điều hòa mật độ dân cư và lao động giữa các vùng để khai thác tài nguyên đất đai, Đảng ủy và Ủy ban nhân dân xã đã chỉ đạo hợp tác xã tích cực chuyển đổi cơ cấu các loại cây trồng, chú trọng tăng năng suất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Chủ trương này được xúc tiến mạnh mẽ từ khi thực hiện Chỉ thị 100 - CT/TW ngày 13.1.1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động trong các hợp tác xã. Tất cả các nhóm và người lao động sau khi nhận khoán đều phát huy cao tính năng động trong việc tìm tòi kinh nghiệm, tiết kiệm chi phí sản xuất, áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật vào thâm canh tăng năng suất, phấn đấu vượt khoán để tăng thu nhập cho mình. Lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được kết hợp chặt chẽ, tạo ra động lực mới trong phát triển nông nghiệp. Chăn nuôi gia súc để tăng sức cày kéo, tăng nguồn phân bón, tận dụng hết diện tích canh tác, thực hiện luân canh, gối vụ, trồng xen... trở thành ý thức của nhóm và người nhận khoán. Chủ trương giao đất, giao rừng cho nhân dân, thực hiện nông lâm kết hợp được tiến hành tích cực và phát huy hiệu quả rõ rệt. Phong trào trồng cây gây rừng phát triển mạnh. Nhiều đồi núi đã được phủ cây xanh. Vườn đồi, vườn cây ăn quả của các hộ gia đình hình thành ngày càng nhiều.
Tháng 9 năm 1985, Đại hội Đảng bộ xã được tổ chức. Đại hội bầu 15 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Hoàng Văn Đức làm Bí thư, phân công đồng chí Võ Xuân Long làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội xác định nhiệm vụ: sắp xếp phân công lại lao động, bố trí lại các loại cây trồng, xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, tập trung cải tạo mặt bằng, đi sâu vào thâm canh tăng năng suất, chú trọng phát triển kinh tế gia đình, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Củng cố công tác tổ chức đảng, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng ở các chi bộ, đào tạo đội ngũ cán bộ các cấp về năng lực, phẩm chất, phân công trách nhiệm đảng viên, đưa số đảng viên, chi bộ xuất sắc lên cao. Sau Đại hội, Đảng bộ đã phát động một phong trào thi đua sôi nổi nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã đề ra. Trên các lĩnh vực công tác xuất hiện nhiều mô hình, nhiều tấm gương điển hình thực hiện tốt các phong trào thi đua, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống nông thôn.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ khi đất nước thống nhất, trải qua hai kì Đại hội Đảng toàn quốc và hai kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, tích cực khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, tập trung phát triển sản xuất để không ngừng xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt, quốc phòng an ninh được củng cố và ngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức vận động quần chúng thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Trong vòng 10 năm, bộ mặt nông thôn Nghi Hưng đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Đảng bộ và nhân dân xã đã tạo được những tiền đề cơ sở  vật
chất cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.

2.ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI - XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
 (1986 - 2020)
Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã thu được nhiều thành quả quan trọng, bước đầu khắc phục được hậu quả chiến tranh, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Song trên thực tế, nền kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm mất đi động lực phát triển, sự năng động, sức sáng tạo, tinh thần tự chủ trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhằm giải phóng năng lực sản xuất hiện có, khai thác phát huy mọi tiềm năng đưa đất nước phát triển lên một bước mới. Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức và đề ra đường lối đổi mới xây dựng đất nước toàn diện.
Tháng 1 năm 1988, Đảng bộ tổ chức Đại hội. Đại hội bầu 15 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Bùi Văn Kế làm Bí thư, phân công đồng chí Võ Xuân Long làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội tập trung cao trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lí kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 (khoán 10) nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp mà cơ chế “khoán 100” không đáp ứng được. Cơ chế khoán mới xác định hợp tác xã là đơn vị tự chủ, tự quản, hộ xã viên là đơn vị nhận khoán. Cơ chế khoán mới thực sự đã cởi bỏ được dây trói trong sản xuất nông nghiệp ở Nghi Hưng, giải phóng được sức sản xuất, tạo điều kiện và động lực để nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ, sức lao động tập trung vào phát triển sản xuất. Thực hiện cơ chế khoán mới đã tạo nên chuyển biến rõ rệt trong đời sống nông thôn Nghi Hưng và thu được nhiều kết quả quan trọng. Trong vòng 1 năm lượng lương thực, thực phẩm trên địa bàn xã đã có dôi dư, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Công trình điện của xã được tiến hành xây dựng góp phần thúc đẩy sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện một cách năng động, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Tháng 4 năm 1989, Ban Chấp hành Đảng bộ xã tổ chức Hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kì. Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành trong nửa  nhiệm kì.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tổ chức, Đại hội khẳng định: Đảng ta kiên trì và quyết tâm con đường xã hội chủ nghĩa là duy nhất đúng, sự nghiệp đổi mới đã thu được kết quả quan trọng, chính sách kinh tế nhiều thành phần được thực hiện nhất quán. Áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Đại hội đã đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Chiến lược ổn định về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Tháng 11 năm 1991, Đảng bộ xã tổ chức Đại hội, bầu 13 Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ xã, bầu đồng chí Bùi Văn Kế làm Bí thư, phân công đồng chí Võ Xuân Long làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội quán triệt và vận dụng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng bộ nhiệm kỳ qua có nhiều chuyển biến tốt. Tổng diện tích trồng cây lương thực năm 1991 đạt 1402,7 ha, trong đó diện tích trồng lúa đạt hơn 1.000 ha. Sản lượng lương thực quy đổi thóc 2.365 tấn vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, sản lượng lương thực quy thóc bình quân 290 kg/người, chăn nuôi phát triển, đàn trâu đạt hơn 2.000 con, đàn bò đạt 1.012 con, đàn lợn 1.916 con. Công tác văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, quốc phòng, an ninh được củng cố, làm tốt công tác huấn luyện dân quân tự vệ, công tác tuyển và giao quân. Tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể được củng cố toàn diện. Đặc biệt, Đảng bộ đã làm tốt công tác tư tưởng trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động mạnh đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kì tới là: tập trung xác lập vị trí kinh tế tự chủ hộ nông dân; giao 90% qũy đất cho hộ nông dân ổn định lâu dài, tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lí hợp tác xã, vươn lên tăng khối lượng hàng hóa đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, để có phần tích lũy tái sản xuất và xây dựng các công trình phúc lợi. Đẩy nhanh ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, tạo ra các bộ giống có năng suất và ổn định, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương, tu sửa, nâng cấp hệ thống giao thông trong toàn xã, quy hoạch xây dựng khu trung tâm của xã, hoàn chỉnh công trình trường học, tu bổ trạm xá, chăm lo giáo dục, y tế, xây dựng đời sống văn hóa. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tháng 1 năm 1994, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 10 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Bùi Văn Kế làm Bí thư, phân công đồng chí Võ Xuân Long làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đề ra nhiệm vụ là tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế tự chủ hộ nông dân, tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, mở rộng diện tích trồng rừng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tu bổ các công trình thủy lợi, chăm lo phát triển văn hóa xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, làm tốt công tác xây dựng các tổ chức đoàn thể nhân dân, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Đại hội đề ra mục tiêu: tổng sản lượng lương thực đạt 2.000 tấn, trong đó màu quy đổi 200 tấn; sản lượng cây công nghiệp: lạc đạt 65 tấn, vừng 24 tấn; đàn trâu, bò 2.000 con, đàn lợn 1.800 con, phủ rừng, đồi trọc 200 ha; tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo còn 15%, xóa hộ đói. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình giảm tỉ lệ phát triển từ 2,4% xuống 2,2%. Thu ngân sách đạt 200 triệu đồng, đầu tư xây dựng trên 100 triệu đồng. Hoàn thành phổ cập cấp I cho 100% số cháu đúng độ tuổi, đầu tư xây dựng để tách trường trung học cơ sở, làm tốt công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, ngăn chặn các loại dịch bệnh, thực hiện tốt mục tiêu quốc gia về y tế, ngăn chặn, phòng trừ bệnh sốt rét, bệnh xã hội ở trẻ em. Trong công tác xây dựng Đảng tập trung vào mục tiêu: tiếp tục giữ vững danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”, có 10/15 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, xóa chi bộ yếu kém. 70% đảng viên đạt loại tốt, giảm đảng viên yếu xuống dưới 5%, mỗi năm kết nạp được 10 - 15 đảng viên. Tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tham gia bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất lượng công tác hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được phân công. Đại hội đề ra các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
Tháng 1 năm 1996, Đại hội Đảng bộ xã được tổ chức, bầu 13 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Bùi Văn Kế làm Bí thư, phân công đồng chí Võ Xuân Long làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa 26. Trong thời gian hai năm, với nỗ lực và quyết tâm cao, Đảng bộ và nhân dân xã Nghi Hưng đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội khóa 24 đề ra. Đây cũng chính là kết quả sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
Nhờ tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, tăng cường xen canh gối vụ, đưa giống mới vào sản xuất, tăng diện tích đất trồng, ngô, khoai, lạc nên tổng sản lượng lương thực năm 1995 đạt 3.123 tấn, diện tích cây lương thực đạt 935 ha, sản lượng lương thực quy thóc bình quân đầu người đạt 307 kg. Tổng đàn trâu bò có 2.100 con, đàn lợn 2.300 con. Nhờ thực hiện giao đất theo Nghị định 64 của Chính phủ cho hộ nông dân nên tạo ra động lực sản xuất, tăng năng suất các loại cây trồng, vật nuôi, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao, các ngành nghề được mở rộng và phát triển góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động như: sản xuất vật liệu xây dựng, xay xát, mộc dân dụng...
Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được quan tâm và có bước phát triển. Tập trung đầu tư xây dựng, tu sửa trường học, trạm xá, sửa chữa và xây mới nhiều cầu cống, huy động hàng ngàn ngày công đào đắp hàng ngàn mét khối đất, đá, làm giao thông, thủy lợi, tiến hành rải cấp phối, nâng cấp, mở rộng mặt đường các tuyến đường liên thôn, liên xã. Tổng kết phong trào xây dựng giao thông nông thôn, Nghi Hưng được Ủy ban nhân dân huyện khen thưởng. Chất lượng dạy và học được nâng lên một bước, cơ sở vật chất được tu sửa, nâng cấp đảm bảo cho việc dạy và học.
Đầu tư xây dựng trạm y tế, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố theo hướng viên chức hóa, thực hiện tốt việc khám chữa bệnh và vệ sinh phòng dịch cho nhân dân. Công tác quốc phòng, an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, giải quyết kịp thời những vấn đề xung quanh khu vực giáp ranh với các xã.
Công tác xây dựng Mặt trận, các tổ chức đoàn thể nhân dân vững mạnh được quan tâm, phát huy tốt vai trò tập hợp quần chúng và tổ chức rộng rãi các phong trào thi đua. Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực, đảm bảo được vai trò lãnh đạo, tiên phong, gương mẫu của từng đảng viên và tổ chức đảng. Đại hội chỉ ra những hạn chế trong nhiệm kì qua là: việc quản lí hợp tác xã có nhiều mặt không phù hợp với tình hình thực tiễn, chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của địa phương, tư tưởng bảo thủ trì trệ của cán bộ, đảng viên, nhân dân còn nặng nên việc chuyển dịch mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chậm, hiệu quả kinh tế còn thấp, xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của địa phương. Đội ngũ cán bộ các cấp trình độ năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong tình hình mới.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ trong những năm tới: tập trung khai thác nguồn lực hiện có, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, phát huy thế lực, tiềm năng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, mở rộng ngành nghề, dịch vụ, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng Đảng bộ vững mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Đại hội đề ra chương trình: tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng phát triển nông nghiệp toàn diện vững chắc. Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ vào sản xuất, thực hiện giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02 của Chính phủ. Xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nông thôn hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Tranh thủ và tập trung các nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, đài tưởng niệm, trạm y tế.
Tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo, tăng cường công tác cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả điều hành, quản lí của chính quyền. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 là: sản lượng lương thực là 4.856 tấn. Bình quân lương thực 450 kg, tổng đàn lợn 3.300 con, đàn trâu bò 2.500 con. Tổng diện tích gieo trồng 9.000 ha; tỉ lệ phát triển dân số 1,8%; Đảng bộ hàng năm đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đại hội đề ra các giải pháp để tổ chức thực hiện thành công phương hướng, nhiệm vụ và các mục tiêu đã xác định. Sau Đại hội, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu vượt qua khó khăn, phát huy truyền thống trong chiến đấu và sản xuất để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã, tháng 10 năm 2000, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 10 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Phạm Quang Hòa làm Bí thư, phân công đồng chí Nguyễn Hải Hậu làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu khóa XXVII là: “Đảng bộ và nhân dân hoàn thành cơ bản các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và công tác xây  dựng Đảng. Công tác thu ngân sách có nhiều tiến bộ, đã khai thác tận dụng được các nguồn thu, công tác chi ngân sách đã từng bước đi vào kế hoạch. Xây dựng cơ sở hạ tầng có nhiều tiến bộ, các nguồn vốn của Nhà nước và nhân dân đóng góp đầu tư đúng mức và phát huy có hiệu quả. Trong 5 năm, xã đã cơ bản hoàn thành những hạng mục công trình theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đề ra. Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, phong trào thể dục thể thao, văn nghệ quần chúng hoạt động sôi nổi, hoạt động của ngành giáo dục, y tế, dân số đã đạt được những thành tựu quan trọng, chính sách xã hội được quan tâm. Hộ giàu, khá tăng qua các năm, hộ đói, nghèo giảm. Chính sách người có công thực hiện tốt, phong trào đền ơn, đáp nghĩa từng bước được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng vững mạnh, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.
Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả trên tất cả các lĩnh vực: chính trị tư tưởng, công tác kiểm tra và công tác tổ chức, chính quyền đã thể hiện được vai trò quản lí, điều hành. Mặt trận và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến và hoạt động có chiều sâu. Cụ thể các chỉ tiêu đã thực hiện: mở rộng diện tích trồng lúa, ngô và khoai lang, tổng diện tích gieo trồng cây năm 2000 đạt 1.606 ha, trong đó diện tích trồng  cây  lương thực đạt 1.120 ha, tổng lương thực năm 2000 là 4.906 tấn, sản lượng bình quân lương thực đầu người đạt 592 kg, tổng thu nhập năm 2000 là 22 tỉ 304 triệu đồng. Trong sản xuất đã tập trung chuyển dịch mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tạo ra khâu đột phá vận động nhân dân chuyển đổi phần lớn diện tích lúa giống cũ năng suất thấp sang làm giống mới ngắn ngày năng suất cao hơn, những ruộng làm 1 vụ nay làm 2 vụ ổn định. Chăn nuôi được xác định là ngành chính quan trọng, tích cực đổi mới con giống, đầu tư hợp lí nên giá trị chăn nuôi phát triển nhanh, nhất là trâu, bò vỗ béo lấy thịt, tổng đàn trâu bò đạt 1.986 con, đàn lợn đạt 4.237 con. Chăn nuôi gia cầm phát triển nhanh theo hướng hàng hóa như: gà công nghiệp, vịt, ngan, ngỗng... Dịch vụ chiếm tỷ trọng 29%, giá trị thu nhập GDP, các ngành nghề phát triển mạnh như: buôn bán, xay xát, cưa xẻ gỗ, cơ khí nhỏ, sửa chữa điện tử… giải quyết một lực lượng lớn lao động, tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống nhân dân. Về lâm nghiệp, trồng mới được 310 ha, chăm sóc, bảo vệ 190 ha rừng tái sinh. Trong đầu tư cơ sở hạ tầng với 5 mục tiêu: điện, đường, trường, trạm, đài truyền thanh. Trong 5 năm, Đảng bộ xã Nghi Hưng tập trung cao trong lãnh đạo huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhân dân, tổng vốn đầu tư hơn 1 tỉ đồng để xây dựng nhà tưởng niệm, trường học, cầu, cống, trạm y tế. Huy động hàng vạn ngày công lao động làm giao thông.
Về giáo dục - đào tạo, xã đã có bước phát triển khá đồng đều về chất lượng dạy và học, ý thức xã hội hóa về giáo dục được nâng lên, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, phong trào khuyến học được đẩy mạnh, học sinh giỏi, giáo viên giỏi tăng hơn năm trước. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được xã hội hóa, phát triển đúng định hướng, không có dịch bệnh xảy ra, cơ sở vật chất được đầu tư đảm bảo phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Làm tốt công tác truyền thông và dịch vụ dân số kế hoạch hóa gia đình nên tỉ lệ phát triển dân số giảm còn 1,34%. Thực hiện tốt công tác xây dựng văn hóa ở khu dân cư, quy ước nông thôn được xây dựng và thực hiện tốt Nghị quyết 29 CP về quy chế dân chủ cơ sở.
Công tác quốc phòng, an ninh được củng cố, đảm bảo bước mới, nhất là việc tập hợp đoàn viên, hội viên, phát động các phong trào cách mạng của quần chúng tham gia phát triển kinh tế xây dựng gia đình, quê hương, xây dựng Đảng và chính quyền.
Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của Đảng bộ. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng nâng cao nhận thức chính trị, đạo đức phẩm chất, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Triển khai kịp thời đầy đủ các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước gắn với việc xây dựng, triển khai chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Công tác tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng, cử cán bộ tham gia các lớp đại học, trung cấp, bổ túc văn hóa. Nội dung sinh hoạt Đảng bộ, chi bộ từng bước được đổi mới và nâng cao. Đảng ủy tổ chức thi bí thư chi bộ, xóm trưởng giỏi cấp xã và tham gia dự thi cấp huyện. Công tác kiểm tra được duy trì, thực hiện nghiêm túc, có kế hoạch kiểm tra định kì giải quyết xử lý kịp thời những vi phạm của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Thông qua kiểm tra kịp thời  uốn nắn ,ngăn ngừa, khắc phục những vi phạm, khuyết điểm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ của Đảng bộ, đảng viên.
Bên cạnh kết quả đạt được, Đại hội đã chỉ ra những tồn tại yếu kém cần tập trung khắc phục là: tư tưởng tiến công  cách mạng trong phong trào phát triển kinh tế chưa mạnh, tiềm năng, nỗ lực lao động chưa được phát huy đúng mức. Huy động các nguồn lực để phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất còn chậm. Các hoạt động văn hóa - xã hội có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu mong muốn của nhân dân như chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các hoạt động của đoàn thể chưa mạnh, chưa đều. Đội ngũ cán bộ từ xã đến cơ sở còn thiếu, công tác bố trí, sắp xếp cán bộ còn hạn chế.
Đại hội đánh giá cao những thành công của Đảng bộ và nhân dân trong 5 năm qua. Bằng sự nỗ lực và quyết tâm cao, tập thể cấp ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nghi Hưng đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu Đại hội đề ra. Đại hội xây dựng phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (2001 - 2005): “Phát huy những kết quả đạt được trong nhiệm kì qua, trong những năm tới Đảng bộ và nhân dân xã nhà tiếp tục phấn đấu thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tập trung khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai, tài nguyên sức lao động tại chỗ, phát huy nội lực đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Vượt qua những khó khăn thách thức đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế vững chắc gắn với việc bảo vệ môi trường trong sạch, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng an ninh vững chắc. Tháng 7 năm 2004, sau khi đồng chí Phạm Quang Hòa được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Văn Hương, Ủy viên Thường vụ -Trực Đảng được bầu giữ chức vụ Bí thư Đảng bộ.
Kết thúc nhiệm kì 5 năm (2000 - 2005), thực hiện Chỉ thị 46 CT/TW của Bộ Chính trị khóa IX về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, tháng 6 năm 2005, Đảng bộ tổ chức Đại hội, bầu 13 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Minh Hương làm Bí thư, phân công đồng chí Nguyễn Hải Hậu làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Đại hội đã đánh giá, tổng kết những kết quả đạt được của Đảng bộ nhiệm kì (2001 - 2005). Đó cũng chính là kết quả sau 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng. Sau 20 năm, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã không ngừng phấn đấu, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn thử thách tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực.
Trong phát triển kinh tế, tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tốc độ phát triển  từ sản xuất 2 vụ lên thành 3 vụ chính trong năm, từ thế độc canh cây lúa sang mở rộng diện tích trồng màu, đưa nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, năng suất và sản lượng lương thực tăng hàng năm. Tổng sản lượng quy thóc năm 2004 đạt 3.828,6 tấn. Cây công nghiệp ngắn ngày tăng nhanh. Chăn nuôi phát triển trên cả 3 mặt số lượng, chất lượng và giá trị thu nhập theo hướng chọn vật nuôi có giá trị kinh tế cao giảm đàn trâu tăng đàn bò, chú trọng bò lai Sind. Năm 2004, tổng đàn trâu bò 1.678 con, tổng đàn lợn là 1.800 con (tăng 275 con so năm 2000). Năm 2005, đàn gia cầm phát triển mạnh, hình thành nhiều mô hình chăn nuôi trang trại, tổng đàn  đạt
34.000 con. Nuôi trồng thủy sản phát triển với 190 ha cá nước ngọt. Tổng giá trị chăn nuôi trong 5 năm đạt 19 tỉ đồng. Trong 5 năm, xã đã trồng phủ kín 571.80 ha rừng theo chương trình 327.
Chương trình cải tạo vườn tạp, vườn đồi, mô hình kinh tế VAC được đẩy mạnh, tập trung chỉ đạo phá bỏ vườn tạp trồng cây có giá trị kinh tế cao, tăng cường công tác tập huấn, liên hệ tìm giống cây trồng có chất lượng cao phù hợp với thổ nhưỡng về cho các hộ dân trồng. Nhờ vậy, trên địa bàn xã đã xuất hiện nhiều mô hình vườn cho thu nhập cao, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết lao động nông nhàn ở nông thôn. Kinh tế phát triển đã góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn Nghi Hưng trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhờ phát huy tốt quy chế dân chủ cơ sở và năng động trong công tác huy động các nguồn lực nên 5 năm qua, xã xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nhanh phục vụ cho sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân và phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, xã còn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 6,2 tỉ đồng. Bằng những nỗ lực trên, xã đã hoàn thành các công trình: 6,5 km đường bê tông các loại, trường học cao tầng tiểu học, nhà văn hóa xóm, tường bao khuôn viên các trường học, trụ sở xã, xây các cầu cống, đập tràn trên các trục đường giao thông.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mạnh như: cơ khí, chế biến nông, lâm sản, xây dựng, nghề mộc, sản xuất vật liệu xây dựng, làm chổi đót ở xóm 11, 12 và xuất khẩu lao động. Các hoạt động thương mại, dịch vụ có bước phát triển mạnh ở các xóm, đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và đời sống nhân dân, ngoài ra còn tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương mỗi năm từ 25 đến 30 triệu đồng, giải quyết việc làm cho 100 đến 150 lao động. Trong 5 năm, tổng giá trị các ngành, nghề thương mại - dịch vụ đạt 13,97 tỉ đồng. Văn hóa, xã hội có những chuyển biến tích cực, công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng được thực hiện tốt hơn. Chất lượng dạy và học được nâng lên, đội ngũ giáo viên cơ bản được chuẩn hóa, tỉ lệ học sinh tiểu học tốt nghiệp đạt  100%, trung học cơ sở đạt 97,6%, hàng năm số học sinh giỏi các cấp đều tăng. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, xây dựng được trạm y tế có đủ trang thiết bị đảm bảo việc khám và điều trị cho nhân dân, không để dịch bệnh xảy ra. Trong 5 năm, trạm y tế đã tổ chức khám cho 6.100 lượt người, điều trị hơn 1.000 lượt, khám mắt hột cho 7.210 người, chăm sóc cho 609 người già. Dân số phát triển mức 1,2% năm 2004, trẻ em suy dinh dưỡng năm 2004 giảm còn 28%. Thực hiện phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” có 66,7% gia đình đạt văn hóa, 3 làng được công nhận đơn vị văn hóa cấp huyện và cấp tỉnh, 95% gia đình có phương tiện nghe nhìn. Trong việc cưới, việc tang giảm các thủ tục phiền hà, nhiều đám cưới được tổ chức theo nếp sống mới do Đoàn Thanh niên và Ban văn hóa xã phối hợp tổ chức. Phong trào đền ơn đáp nghĩa được nhân dân tích cực hưởng ứng, đầu tư xây dựng 3 nhà tình  nghĩa.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Đảm bảo việc triển khai tổ chức học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Định hướng tư tưởng và cung cấp kịp thời các loại thông tin, nắm bắt diễn biến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội để có định hướng giải quyết vướng mắc, nảy sinh không để phát sinh các điểm nóng về mâu thuẫn trong nhân dân. Đặc biệt, Đảng bộ xã tổ chức học tập và thực hiện Nghị quyết 13 của Ban Chấp hành Huyện ủy về “Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong phát triển kinh tế”. Trong 5 năm, nhiều đồng chí cán bộ chủ trì và cán bộ dự nguồn được đi học các lớp đại học chuyên môn và trung cấp lí luận chính trị. Đội ngũ cán bộ thường xuyên tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày do huyện, tỉnh mở nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác vươn lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong sự nghiệp đổi mới của Đảng. Công tác kiểm tra thực sự đã góp phần củng cố, tăng cường vai trò, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo và uy tín của Đảng. Hoạt động của mặt trận và các đoàn thể ngày càng đi vào thực chất và có hiệu quả, phát động tốt các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bằng sự năng động, sáng tạo, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đã củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phối hợp tổ chức các phong trào thi đua dưới nhiều hình thức tạo nên nguồn cổ vũ, động viên lớn lao thu hút đông đảo lực lượng nhân dân tham gia có những đóng góp quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua. Kết quả đạt được trong nhiệm kì (2000 - 2005) là nổi bật, đậm nét, khẳng định bước tiến vững chắc và đúng hướng của Đảng bộ.
Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần được quan tâm và khắc phục trong nhiệm kì tới là: một số chỉ tiêu phát triển chưa ổn định và vững chắc, tư tưởng bảo thủ trì trệ, chậm khắc phục chưa tạo được sự đột phá trong phát triển kinh tế, chưa có những mô hình sản xuất thâm canh, kinh tế trang trại còn ít, quy mô và hiệu quả chưa cao, việc huy động nội lực chưa tương xứng với tiềm năng để xây dựng kết cấu hạ tầng, hoạt động dịch vụ thương mại chưa phát triển mạnh. Văn hóa, xã hội phát triển chưa đều, còn có mặt tiêu cực, ngăn chặn chưa hiệu quả. Trong xây dựng Đảng, tư tưởng bảo thủ, trì trệ trông chờ ỷ lại còn nặng nề, một số nghị quyết triển khai chưa đi vào cuộc sống nhân dân, công tác bố trí, sử dụng cán bộ còn nhiều lúng túng, kết quả thực hiện Nghị quyết 01, 02 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXV về khắc phục các khâu yếu, mặt yếu và xóa xóm chưa có chi bộ, chưa có đảng viên còn hạn chế.
Đại hội cũng đã đề ra các mục tiêu cụ thể và giải pháp tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết trong 5 năm tới. Đại hội tập trung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời khai thác có hiệu quả nguồn lực địa phương, tài nguyên sức lao động phát huy tối đa nội lực, khai thác triệt để ngoại lực.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng vật nuôi hợp lí. Phát triển mạnh sản xuất hàng hóa, đảm bảo tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững gắn với thực hiện các chính sách xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh.
 Sau 30 năm cùng nhân dân cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã không ngừng phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách đạt được nhiều thành tựu, xây dựng bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Cùng với những thành tích to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược góp phần xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quê hương Nghi Lộc và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tháng 6 năm 2008, Đảng bộ tổ chức Hội nghị kiểm điểm, đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kì (2005 - 2010). Hội nghị đã đánh giá cao những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, tìm nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đề ra. Trong 3 năm, Nghi Hưng thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện có nhiều khó khăn do sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc dân, thời tiết diễn biến bất thường, các loại dịch bệnh liên tục xảy ra trên cây trồng, gia súc, gia cầm, giá vật tư phục vụ cho sản xuất tăng cao, nhiều mặt trái của cơ chế thị trường trong nền kinh tế hội nhập tác động trực tiếp đến đời sống nhân dân. Phát huy truyền thống trong chiến đấu và sản xuất, Đảng bộ đã tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo khơi dậy tiềm năng nội lực, đoàn kết, thống nhất giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực. Kinh tế có bước tăng trưởng khá, chuyển dịch đúng hướng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt khá cao 10,8%. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo xây dựng mô hình sản xuất cánh đồng cho thu nhập cao nhân ra diện rộng với cơ cấu 3 vụ chính trong năm. Trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nhân dân xã Nghi Hưng đã thay đổi tư duy, tập quán chăn nuôi cũ chuyển sang chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng hàng hóa với việc chọn giống có năng suất, hiệu quả kinh tế cao. Mở rộng diện tích trồng mới và chăm sóc rừng, đem lại nguồn lợi kinh tế cao cho các hộ nông dân.
Lao động trong các ngành nghề, dịch vụ thương mại tăng nhanh góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân, tạo ra nguồn vốn để kích cầu đầu tư phát triển sản xuất, mở rộng các ngành nghề, đầu tư xây dựng nông thôn. Năm 2007, xã có 136 hộ tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giá trị thương mại dịch vụ đạt 6,51 tỉ đồng. Xã đã huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa xóm.
Xác định phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa - xã hội là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân dân tạo động lực thúc đẩy phát triển toàn xã hội, trong 3 năm, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân tập trung xây dựng phát triển mạnh lĩnh vực văn hóa xã hội. Đến năm 2007, xã có 6 đơn vị được công nhận danh hiệu văn hóa, gia đình văn hóa đạt hơn 70%. Xã đã cơ bản xóa xong nhà tranh tre, tạm bợ. Công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Tuy nhiên, Đảng bộ vẫn phải nỗ lực phấn đấu để thực hiện tốt hơn một số chỉ tiêu mà Đại hội nhiệm kì (2005 - 2010) đề ra còn đạt thấp hoặc chưa đạt như: giảm hộ nghèo, giảm người sinh con thứ 3 trở lên, đời sống nhân dân được nâng lên nhưng vẫn ở mức thấp so với mặt bằng và điều kiện phát triển xã hội, sự phân hóa giàu nghèo trong nông thôn, vấn đề giải quyết việc làm. Chất lượng giáo dục toàn diện chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân cần được quan tâm hơn, cần tập trung nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh, thường xuyên làm tốt công tác phòng dịch bệnh trên địa bàn.
Những kết quả đạt được trong 3 năm qua, khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lí, điều hành và tổ chức thực hiện của chính quyền, sự tham gia tích cực của mặt trận và các đoàn thể chính trị nhằm tạo nên khối đoàn kết toàn dân nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra xây dựng Nghi Hưng ngày càng phát triển.
    Thực hiện Chỉ thị số 37 - CT/TW của Bộ Chính trị, Thông tri số 07-TT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy và các văn bản của cấp ủy cấp trên về đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tháng 5 năm 2010, Đảng bộ xã Nghi Hưng tổ chức Đại hội. Đại hội bầu 15 Ủy viên Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Hải Hậu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Khai làm Phó Bí thư - trực Đảng, đồng chí Nguyễn Đình Hoàng làm Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ nhiệm kì (2005 - 2010) với nhiều kết quả nổi bật. Kinh tế tiếp tục có chuyển dịch nhanh và đúng hướng. Tổng giá trị sản xuất năm 2010 đạt 42,77 tỉ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 12,8 triệu đồng/người/năm (chỉ tiêu  đại hội là 5,2 triệu đồng/người/năm). Tổng sản lượng lương thực đạt 4.600 tấn. Ngành nghề chăn nuôi cũng phát triển mạnh. Tổng đàn trâu bò năm 2010 đạt 3.000 con (tăng 1.247 con so với năm 2005); đàn lợn đạt 4.000 con. Diện tích nuôi cá nước ngọt tiếp tục được mở rộng lên 35 ha. Công tác trồng, chăm sóc và phòng chống cháy rừng được triển khai thực hiện có hiệu quả. Ngành tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản tiếp tục có bước phát triển nhanh. Các làng nghề chổi đót ở Khe Cù, Xuân Sơn được mở rộng quy mô sản xuất, góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Trong 5 năm, xã đã đầu tư xây dựng 28 công trình và các hạng mục lớn nhỏ với tổng số vốn đạt 18,134 tỉ đồng. Xây dựng được 6,8 km đường nhựa, 2 trạm biến áp, 18 phòng học kiên cố.
Là một xã miền núi, trước đây Nghi Hưng ít có điều kiện để phát triển thương mại dịch vụ. Với quyết tâm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Đảng bộ đẩy mạnh chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy về phát triển thương mại, dịch vụ. Các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ điện năng cơ bản đáp ứng được các yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn. Các ngành nghề dịch vụ cũng phát triển đa dạng như vật liệu xây dựng, vận tải, gò hàn, mộc dân dụng…
Công tác giáo dục - đào tạo có những bước tiến quan trọng. Đây là nhiệm kì mà Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng tập trung nguồn lực đầu tư cho hệ thống giáo dục các cấp. Quy hoạch và xây dựng trường mầm non theo tiêu chuẩn Quốc gia, các trường tiểu học và trung học cơ sở đều được đầu tư xây dựng kiên cố. Năm 2007, trường tiểu học được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Năm 2009, trường mầm non tiếp tục được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Tỉ lệ học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp hàng năm đạt trên 98%. Đặc biệt, số học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều, bình quân mỗi năm có trên 30 em đậu vào đại học và cao đẳng. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm và nâng cao chất lượng. Trạm y tế xã được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ y, bác sĩ. Đặc biệt năm 2008, Nghi Hưng được công nhận xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế.
Thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đẩy mạnh các phong trào thi đua xây dựng đời sống văn hóa mới trong nông thôn. Các thiết chế văn hóa không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Năm 2010, 15/15 xóm có nhà văn hóa, tăng 13 xóm so với năm 2005, tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 80%. Công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng có sự tiến bộ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đảng bộ luôn phát huy tốt và giữ vững danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh” nhiều năm liền, đội ngũ cán bộ ngày càng được chuẩn hóa về chuyên môn và lí luận, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đạt trong sạch vững mạnh. Từ năm 2006, thực hiện Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân đã tập trung thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đưa cuộc vận động trở thành một phong trào, rèn luyện về tư tưởng và hành động theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng bộ và nhân dân, tạo nên một phong trào thi đua sôi nổi với nhiều tấm gương và việc làm thiết thực.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ vẫn còn bộc lộ những tồn tại, yếu kém: chưa tạo ra được bước đột phá có tính quyết định trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế có bước tăng trưởng nhưng chưa bền vững, chất lượng cuộc sống của người dân vẫn chưa được nâng cao so với mặt bằng chung của huyện. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức, cơ sở đảng vẫn còn hạn chế. Hoạt động điều hành của chính quyền trên một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Các phong trào thi đua của quần chúng chưa đồng bộ, thiếu chiều sâu và sức lan tỏa. Từ những tiền đề đã đạt được trong nhiệm kì (2005 - 2010), Đảng bộ xác định nhiệm vụ trong 5 năm tới là: tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, phát huy sức mạnh toàn xã hội, tích cực nắm bắt, tranh thủ thời cơ, khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế; tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế một cách toàn diện; quan tâm thực hiện tốt các chính sách xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đại hội đã xác định 7 nhiệm vụ trọng tâm và các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015: tổng giá trị sản xuất đạt 74,266 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11,6%; tổng sản lượng lương thực đạt 4.700 tấn; tỉ lệ hộ nghèo dưới 8%; tỉ lệ phát triển dân số dưới 1%; cả 3 hệ học đạt chuẩn Quốc gia, trong đó trường mầm non và trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2; tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 85 – 90%; Đảng bộ hàng năm đạt “Trong sạch vững mạnh”.
Bước vào năm 2011, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng tập trung cao cho nhiệm vụ triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới. Xác định đây là cuộc cách mạng trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Đảng bộ đã tập trung tuyên truyền, vận động sâu rộng trong nhân dân, xây dựng sức mạnh đoàn kết quyết tâm xây dựng  nông thôn Nghi Hưng đổi mới. Ủy ban xã đã triển khai công tác xây dựng quy hoạch để trình huyện phê duyệt. Song song với nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, Đảng bộ cũng đẩy mạnh nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, lãnh đạo thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đặc biệt là việc triển khai nghiên cứu, học tập quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết Trung ương 4 đã được toàn thể cán bộ, đảng viên Nghi Hưng đón nhận với niềm tin xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, đủ tâm, đủ tầm, đủ trí tuệ để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Với khí thế và quyết tâm cao cùng thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng và phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng tin tưởng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đại hội nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã đề ra
    Thực hiện Công văn số 107 - KH/HU ngày 09/4/2013 của Ban Thường vụ Huyện uỷ; Hướng dẫn số 09-HD/BTCHU ngày 17 tháng 5 năm 2013 của Ban Tổ chức Huyện uỷ về kiểm điểm, đánh giá kết quả sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2010- 2015. Tháng 5 năm 2013, Ban Chấp hành Đảng bộ xã tổ chức hội nghị kiểm điểm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kì 2010 – 2015. Mặc dầu có nhiều khó khăn về thời tiết diễn biến phúc tạp khó lường, tình hình lãm phát, giá cả tăng cao gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Trong 3 năm qua cấp uỷ, chính quyền tập dành nhiều thời gian cho việc lãnh đạo, chỉ đạo bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đại hội chi bộ và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Công tác tổ chức cán bộ sau bầu cử Hội đồng nhân dân có sự thay đổi, trình độ quản lý, điều hành của một số cán bộ, nhất là cán bộ xóm còn hạn chế chưa đáp ứng với nhiệu vụ yêu cầu hiện nay.
   Song, tình hình kinh tế, an sinh xã hội của đất nước và địa phương có bước tăng trưởng khá; xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận các đoàn thể có nhiều chuyển biến tích cực.. Sau Đại hội Đảng bộ, bầu cử Hội đồng nhân dân được củng cố về số lượng và chất lượng, tạo được động lực trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ. Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết TW 3,4,5,6,( Khoá XI) của Đảng được cấp uỷ quán triệt triển khai kịp thời chất lượng; tiếp tục thực hiện Chỉ Thị 03 -CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh đã tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ đề ra. Với quyết tâm và nỗ lực lớn, Nghi Hưng đã thu được những kết quả quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực.
      Trên lĩnh vực phát triển kinh tế: Đảng uỷ đã tập trung chỉ đạo một số lĩnh vực đã có bước phát triển khá, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, sản lượng, giá trị sản xuất nông, công  nghiệp tăng. Tổng giá trị sản xuất 160tỷ /288,32tỷ, đạt 55,49% Nghị quyết Đại hội. Trong đó: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp 77,4tỷ/102,62tỷ đạt 75,42%. Công nghiệp xây dựng : 61,3tỷ/132,3tỷ; đạt 46,33%. Thương mại dịch vụ: 21,7 tỷ /53,4tỷ đạt 40,63% Nghị quyết Đại hội. Tổng giá trị tăng thêm 8,4tỷ/ 159,47tỷ đạt 61,7% . Tốc độ tăng trưởng kinh tế 9,5%. Thu nhập bình quân đầu người: 18,6 triệu đồng, tăng 5,8 triệu đồng so với năm 2010, đạt 58,1% Nghi quyết Đại hội.
   Uỷ ban nhân dân xã đã triển khai xây dựng các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trông, vật nuôi. nâng cao hiệu quả đề án cánh đồng cho thu nhập cao, phát triển chăn nuôi gia đình và trang trại trên địa bàn xã. Giá trị ngành chăn nuôi tăng qua hàng năm từ 15 đến 20%. Kinh tế các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và xây dựng phát triển. Trên địa bàn xã có 3 công ty vào đầu tư. giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động, đời sống nhân dân trong xã. Làng nghề chổi đót xóm 4 (Xuân Sơn, Khe cù) tiếp tục phát triển sản phẩm góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân 2 xóm giáo .
    Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại trên địa bàn có chuyển biến tích cực. Hơn 2 năm trên địa bàn xã đã triển khai xây dựng 7 công trình trọng điểm. Trong đó công trình do xã làm chủ đầu tư như: Đường làng nghề, trụ sở làm việc cơ quan xã, trường học cao tầng Trung học cơ sở Hưng – Đồng, nhà Truyền thanh xã với tổng số vốn đầu tư 17 tỷ đồng, trong đó vốn cấp tỉnh hơn 3 tỷ đồng, huyện 1 tỷ, vốn ngân sách và huy động trong dân 470 triệu đồng.
   Các ngành nghề dịch vụ tiếp tục phát triển mở rộng trên các hoạt động. Hợp tác xã dich vụ cơ bản đảm bảo các yêu cầu chính như: thuỷ lợi và cung ứng vật tư.
 Về công tác quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, bảo vệ tài nguyên, môi trường trên địa bàn có quy hoạch, điều chỉnh bổ sung kế hoạch sử dụng đất đai hàng năm được thực hiện đảm bảo. Tiến hành  làm thủ tục để giải quyết các trường hợp tồn đọng về đất ở, đất vườn và  cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau chuyển đổi đất theo Chỉ thị 02 để cấp đổi cho nhân dân.
  Ban Chấp hành Đảng bộ đã lãnh dạo, chỉ dạo xây dựng và phê  duyệt, công bố quy hoạch xây dựng nông thôn mới, theo quy định  xã đã đạt được 6/ 19 tiêu chí. Khai thác có hiệu quả các nguồn thu trên địa bàn, thu, tăng cường quản lý các nguồn thu từ lĩnh vực xây dựng cơ bản, phí và lệ phí, tiết kiệm chi thường xuyên để đầu tư phát triển.
   Đảng uỷ ban hành nghị quyết, Uỷ ban nhân dân xã lập đề án xây dựng trường trung học cơ sở  đạt chuẩn quốc gia. Trường tiểu học, mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ II. Tổ chức quán triệt triển khai thực hiện Nghị quyết 12 của Ban chấp  hành Đảng bộ huyện về công tác giáo dục cho các cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức và quần chúng nhân dân kịp thời, chất lượng. Hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng có nhiều chuyển biến tích cực, đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành mở các lớp bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi thú y... cho các cán bộ, đoàn viên, hội viên. Hoạt động của Hội khuyến học có nhiều chuyển biến tích cực, toàn xã  15/15 xóm có chi hội khuyến học, có 17 dòng họ hiếu học .
 Công tác giáo dục đào tạo, đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dạy và học. Đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá đạt chuẩn và trên chuẩn; số học sinh giỏi, học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng.
 Lĩnh vực văn hoá, thông tin thể thao: Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân đã tập trung chỉ đạo triển khai kế hoạch tuyên truyền, tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong các năm. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều khởi sắc, tham gia các hội thi đều đạt giải cao trong huyện, chất lượng các đơn vị văn hoá được nâng lên, năm 2013 có 6 đơn vị văn hoá; số gia đình văn hoá năm 2012 là 1.186 hộ đạt tỷ lệ 81,2%/90%KH Đại hội, tăng 145 hộ so với năm 2010.
  Cường công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình và trẻ em thực hiện có hiệu quả hoạt động có chất lượng hơn: tỷ lệ phát triển dân số năm năm 2012 là 0,62%, Nghị quyết Đại hội dưới 01% . Thực hiện tốt và có hiệu quả mạng lưới y tế xóm, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, thực hiện  tốt phong trào vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm.
 Hàng năm Đảng uỷ đề ra nhiệm vụ, mục tiêu, Uỷ ban nhân nhân xã triển khai thực hiện tốt chế độ chính sách, xã hội, công tác xoá đói, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 là 17%, thì đến năm 2012 giảm xuống còn 13,1%/, số nhà được xây dựng mới và tu sửa là 75 nhà.
 Công tác Quốc phòng, An ninh: Cấp uỷ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện  kế hoạch an toàn làm chủ- sẵn sàng chiến đấu, “3 yên, 3 giảm”, triển khai Kết luận số 41 của Bộ Chính trị và tiếp tục thực hiện Chỉ thị 16 của Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với dân quân tự vệ.  Xây dựng, Ban Chỉ huy quân sự xã có 5 người, thôn đội trưởng 15 người, trung đội mạnh 22 người, 15 tổ dân quân tại chỗ và 4 tổ dân quân binh chủng có  12 người, tỷ lệ đảng viên trong dân quân 21%; 137 đồng chí dự bị động viên.
    Công tác xây dựng Đảng tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Tổ chức tốt công tác quán triệt, triển khai các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh trong tổ chức đảng và đoàn thể, nhân dân.  Đảng ủy tiếp tục quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm. Sau kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 đã kịp thời xây dựng được kế hoạch khắc phục các hạn chế, khuyết điểm. Đảng uỷ đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo các chi bộ, các đoàn thể triển khai thực hiện các tiêu chí, chuẩn mức đạo đức của cán bộ, đảng viên và đưa việc quán triệt, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh  thành nội dung thường xuyên trong sinh hoạt định kỳ hàn tháng của cấp uỷ, chi bộ, cơ quan, đoàn thể; gắn với việc thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp.
   Đảng ủy, Uỷ ban Kiểm tra Đảng ủy xây dựng kịp thời chương trình công tác kiểm tra, giám sát. Qua kiểm tra nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, vai trò trách nhiệm đảng viên trong thực hiện nhiệm được phân công. Chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ cơ sở, phong trào thi đua dân vận khéo. Cấp uỷ tăng cường chỉ đạo, kiểm tra vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, quản lí, điều hành của Uỷ ban nhân dân, sự phối hợp của Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị, nên các kế hoạch, chương trình, đề án, mục tiêu thực hiện có hiệu quả.
  Việc triển khai thực hiện Đề án số 04 của Ban Thường vụ  Huyện uỷ về xây dựng chi bộ trong vùng giáo, thực hiện có hiệu quả, chất lượng hoạt động của 2 chi bộ vùng giáo có  nhiều chuyển biến tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo, chất lượng được nâng lờn, phân loại năm 2012 có 02 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Cấp uỷ tập trung chỉ đạo 4 mô hình dân vận khéo:  về phát triển kinh tế ở làng nghề chổi đót 2 xóm giáo (xóm Xuân Sơn, Khe Cù), mô hình xoá đói giảm nghèo, hũ lợn tiết kiệm ở Hội phụ nữ xã, mô hình trong phong trào văn hoá ở xóm 13, xóm 9. Thực hiện các thiết chế văn hoá được nhân dân trong xóm hưởng ứng xây dựng: đường làng, nhà hội quán được tu sửa sạch đẹp, nhân dân gắn bó giúp nhau xoá đói giảm nghèo.
  Hoạt động của Hội đồng nhân xã phát huy  được vai trò cơ quan quyền lực, quyết định nhiều chủ trương giải pháp quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội. Ủỷ ban nhân dân xã có nhiều chuyển biến rõ nét trong điều hành và quản lý xã hội. Các chỉ tiêu kinh tế, xã hội cơ bản đạt và vượt kế hoạch đề ra. Kết quả năm 2012 được Uỷ ban nhân dân huyện xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệmvụ.
  Hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các  đoàn thể quần chúng có sự phối hợp khá nhịp nhàng trong hệ thống chính trị, chất lượng hoạt động của các chi đoàn, chi hội không ngừng nâng lên. Triển khai thực hiện Nghị quyết 02, Nghị quyết 01, của Ban Chấp hành  Đảng bộ huyện về xoá yếu, mất trắng, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, ngày được phát  huy.
Hàng năm Mặt trận Tổ quốc xã được huyện đánh giá hoàn thành xuất sắc, Đoàn Thanh niên được huyện đoàn xếp loại xuất sắc; Hội Phụ nữ được Huyện hội xếp loại hoàn thành xuất sắc, được Trung ương Hội tặng Bằng khẹn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh được Huyện hội đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ.
  Ghi nhận những kết quả đã đạt được vẫn còn những hạn chế: Trong lãnh đạo, chỉ đạo chưa cỏ giải pháp tích cực để nâng cao hiệu quả các đề án phát triển kinh tế, nhân dân còn chậm chuyển dịch cơ cấu cấu cây trồng, vật nuôi.  Xây dựng làng văn hoá còn chậm, chất lượng một số làng văn hoá chưa đạt yêu cầu,  một số chính sách xã hội triển khai chưa đồng bộ, công tác thông tin tuyên truyền thiếu chủ động, chưa kịp thời. Công tác quốc phòng, an ninh  đã có nhiều cố gắng, song do lực lượng, phương tiện và công tác bảo đảm còn thiếu và yếu nên khả năng xử lý các vụ việc phức tạp hiệu quả còn thấp. Phong trào tự quản ở các khu dân cư phát huy chưa cao.
    Công tác dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể đã có nhiều cố gắng tập trung xây dựng các chương trình đề án, ban hành các nghị quyết, song việc tổ chức quán triệt và chỉ đạo thực hiện chưa cao. Vai trò  kiểm tra, giám sát của cấp uỷ chưa thường xuyên. Công tác cán bộ chất lượng không đều có nơi vừa yếu lại vừa thiếu, nhất là ở cấp xóm. Một số cán bộ xác định chưa rõ vai trò nhiệm vụ được phân công, nên một số chương trình, kế hoạch, đề án được phân công, chưa tham mưu kịp thời cho cấp ủy. Chất lượng sinh hoạt ở một số chi bộ chưa cao, nhiều chi bộ chưa xây dựng được chương trình công tác, chỉ tiêu phát triển đảng viên
    Từ  những kết quả đạt được và những hạn chế, cấp uỷ  đã xây dựng  nghị  quyết với phương hướng, nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu đề theo nghị quyết dại hội đầu nhiệm kỳ 2010 -2015
    Tháng 5 năm 2015, thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị, Thông tri số 08-TT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổ chức đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,  Đảng bộ Nghi Hưng tổ chức Đại hội đại biểu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kì 2010 - 2015 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kì 2015 - 2020. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Đình Hoàng làm Bí thư, phân công đồng chí Nguyễn Hải Hậu , PBT - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Văn Khai, Phó Bí thư thường trực (Từ tháng 6/2016 làm PCT Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Nguyễn Viết Thanh làm Phó Bí thư thường trực)
     Với một Đảng bộ có truyền thống cách mạng, nhân dân cần cù lao động sản xuất và phát triển kinh tế, Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xã đã vận dụng và cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của các cấp ủy đảng vào tình hình địa phương, ,từ đó tổ chức thực hiện đã đạt và vượt các mục tiêu, chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đã đề ra, giành được nhiều thành tích trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh:
   Trong 5 năm của nhiệm kỳ 2010 -2015, kinh tế Nghi Hưng tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7,4%; Tổng giá trị sản xuất đến 2015 đạt 156,253 tỷ đồng tăng 14,4 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 22,9 triệu đồng/năm. Tổng sản lượng lương thực năm 2014 đạt 4960 tấn, tăng 320 tấn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư chiếm 51,14%, công nghiệp, xây dựng chiếm 28,43%. Dịch vụ, thương mại chiếm 20,33%. Thu ngân sách trên địa bàn xã năm 2015 đạt 7,4 tỷ đồng.  Sản xuất nông nghiệp phát triển khá, tốc độ tăng truởng bình quân hàng năm đạt 3,0 %. Giá trị sản xuất năm 2015 đạt 81,5 tỷ đồng, chiếm 51,24 % tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế. Cơ cấu cây trồng, mùa vụ tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ và đúng hướng, giống, cây trồng, vật nuôi theo hướng thâm canh, tăng năng suất. Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, diện tích lúa lai, lúa có năng suất chất lượng cao được đưa vào sản xuất đại trà. Giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích tăng nhanh, tỷ trọng ngành trồng trọt 43,1%. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, giá trị chiếm 56,9% trong tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tổng đàn trâu bò 3.300 con, bò lai sin chiếm 65%, đàn lợn 3400 con; gia cầm phát triẻn mạnh. Kinh tế rừng tiếp tục được quan tâm đầu tư và phát huy hiệu quả. Thực hiện tốt chính sách khoán rừng đến từng hộ dân, thực hiện tốt việc trồng mới chăm sóc, bảo vệ và khai thác tài nguyên rừng, tạo việc làm thường xuyên cho 120 lao động, hàng năm thu nhập từ rừng 520 triệu đồng; làm tốt công tác phòng chống cháy rừng, không để cháy rừng xảy ra. Các hoạt động khuyến nông và dịch vụ cung ứng giống, vật tư được tăng cường. Phong trào xây dựng nông thôn mới được Đảng bộ và nhân dân tích cực hưởng ứng, đạt 13/19 tiêu chí nông thôn mới. Năm 2015, xã tổ chức sát nhập 30 hộ từ xóm 14 sang xóm 13, tổng 96 hộ. 6 hộ xóm 8 sang xóm 7, tổng 87 hộ.
  Công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp có bước chuyển tích cực. Giá trị sản xuất tính đến năm 2015 đạt 86,176 tỷ đồng, chiếm 28,43% trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 13,0%/năm (mục tiêu đại hội là 6,7 %).
   Trong nhiệm kỳ đã xây dựng 2,7km đường nhựa, 2,3 km đường bê tông, 1,3km kênh mương nội đồng, xây dựng 02 nhà làm việc cơ quan xã, 12 phòng học kiên cố cho trường trung học cơ sở, xây dựng được 6 nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách xã hội có khó khăn về nhà ở; hầu hết các xóm đều xây dựng mới và nâng cấp nhà văn hóa, các thiết chế văn hóa giá trị hàng trăm triệu đồng. Hệ thống lưới điện hạ áp tiếp tục được xây dựng mới và nâng cấp. Tổng kinh phí đầu tư các công trình xây dựng cơ bản đạt 33 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn từ ngân sách cấp trên 28tỷ, huy động nội lực 5tỷ. Cấp ủy, chính quyền và nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn, một số doanh nghiệp đã phát huy tốt, sản xuất có hiệu quả đã giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động địa phương và tham gia công tác phúc lợi xã hội hàng trăm triệu đồng.
 Ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển về quy mô, số lượng và hiệu quả kinh tế, đã góp phần làm tăng thêm giá trị sản xuất, nâng cao thu nhập kinh tế hộ. Nghề sản xuất chổi Đót ở 2 xóm 10 và 11, quy mô ổn định, tăng thu nhập cho người dân.
    Dịch vụ, thương mại có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 11,4%. Trên địa bàn xã có 48 hộ kinh doanh, dịch vụ các mặt hàng, sản phẩm thiết yếu, toàn xã có 106 lao động làm việc ở nước ngoài và 250 lao động tại các công ty, doanh nghiệp trong nước.
    Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường, thực hiện tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đến hết năm 2014 cơ bản đã hoàn tất các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo Nghị định 64 - NĐ/CP của chính phủ.
   Công tác giáo dục đào tạo, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học được tăng cường, các trường của 3 hệ học đều được xây dựng kiên cố, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển giáo dục trên địa bàn. Tỷ lệ huy động theo độ tuổi cả 3 hệ học đạt cao. Chất lượng phổ cập tiểu học, trung học cơ sở đạt khá. Chất lượng đội ngũ giáo viên tiếp tục được chuẩn hóa và nâng cao. Tỷ lệ học sinh xét tốt nghiệp trung học cơ sở  hàng năm đạt trên 99%, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp, số học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm đều tăng. Thực hiện tốt việc sáp nhập Trường Trung học cơ sở Hưng - Đồng. Năm 2014 cả 3 trường đều được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia.
   Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đi vào nề nếp có chất lượng trên cả 3 mặt, thực hiện tốt chương trình mục tiêu y tế quốc gia. hàng năm không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn, công tác điều trị tại trạm y tế thực hiện theo phân tuyến, hàng năm khám và chữa bệnh cho nhân dân đều đạt các tiêu chuẩn quy định. Phối hợp tốt với các tổ chức chính trị, xã hội làm tốt công tác tuyên truyền vận động trong nhân dân thực hiện tốt chính sách dân số, tỷ lệ phát triển dân số còn 0,75% giảm 0,1% so đầu nhiệm kỳ; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 22% ,
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đã tập trung xây dựng thêm 02 xóm, 02 dòng họ văn hóa, đến nay đã có 13 đơn vị, 2 dòng họ đạt danh hiệu văn hóa, tỷ lệ hộ gia đình văn hóa 82% tăng 6,8% so với đầu nhiệm kỳ. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
  Tham gia phối hợp và tổ chức nhiều sự kiện, hội thi đạt kết quả tốt, tổ chức tốt kỷ niệm 60 năm ngày thành lập xã và đón nhận danh hiệu Trường Trung học cơ sở Hưng - Đồng đạt chuẩn quốc gia.
    Đảng uỷ đã ban hành nghị quyết về công tác quốc phòng, an ninh. Ban chỉ huy quân sự, Ban công an xã bám sát nghị quyết của các cấp ủy, chỉ thị, để tập trung xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện kịp thời. Thực hiện có hiệu quả các kế hoạch về chiến đấu trị an, an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, phòng chống cháy rừng, phòng chống bão lụt, đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự đảm bảo số lượng và chất lượng, tổ chức diễn tập, tham gia diễn tập được Ban chỉ huy Quân sự huyện đánh giá cao.
  An ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, tăng cường công tác tuần tra tấn công truy quét tội phạm. Công tác quản lý hành chính, trật tự xã hội được thực hiện nghiêm túc, ổn định tình hình an toàn trật tự trên địa bàn xã.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân từng bước được đổi mới và phát huy hiệu quả, cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng bộ bằng việc ban hành các nghị quyết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, nêu cao được tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trước cử tri xã nhà.
 Uỷ ban nhân dân xã đã phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước ở địa phương, bám sát nhiệm vụ của cấp uỷ, triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, có nhiều giải pháp tích cực để tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.
   Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân có tiến bộ, thường xuyên động viên đoàn viên, hội viên tích cực tham gia các phong trào thi đua, vận động, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Qua đánh giá chất lượng hàng năm các tổ chức đoàn thể đều được tổ chức cấp trên xếp loại vững mạnh và vững mạnh xuất sắc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiên binh được Trung ương hội tặng Bằng khen, Đoàn Thanh niên được Tỉnh Đoàn tặng Bằng khen.
   Công tác xây dựng Đảng: Cấp ủy đã tổ chức quán triệt  đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, nghị quyết cấp ủy các cấp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh theo nội dung Chỉ thị 03 - CT/TW của Bộ Chính trị. Đảng ủy thường xuyên cung cấp thông tin, báo chí cho cán bộ, đảng viên, chế độ báo cáo thông tin thời sự được duy trì nghiêm túc, đồng thời nắm bắt và giải quyết những vấn đề nảy sinh về tư tưởng, tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Cấp uỷ triển khai thực hiện tốt kế hoạch xóa khâu yếu, mặt yếu và kế hoạch thực hiện Đề án 04 của Ban Thường vụ Huyện uỷ về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ trong vùng giáo”. Duy trì và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, đảng bộ và sinh hoạt chi bộ theo Chỉ thị số 10 của Ban Bí thư Trung ương. Chất lượng hoạt động của đảng bộ, các chi bộ được nâng lên, không có chi bộ yếu kém.
 Quan tâm tạo điều kiện cho cán bộ đi học để nâng cao về lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ. Thực hiện kịp thời việc nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm. Trong nhiệm kỳ đã tập trung bồi dưỡng và kết nạp được 26 đảng viên mới.  Đảng uỷ, Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình công tác kiểm tra, giám sát hàng năm.
  Hoạt động của  khối dân vận, tổ dân vận từ xã đến xóm được củng cố. Triển khai thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị. Phương thức tuyên truyền vận động, tập hợp quần chúng nhân dân được đổi mới, chất lượng hoạt động của khối dân vận từ xã đến xóm ngày được nâng lên, tập trung xây dựng được nhiều mô hình dân vận khéo hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải phóng mặt bằng xây dựng kết cấu hạ tầng... giữ vững ổn định chính trị, củng cố mối quan hệ gắn bó và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chính quyền.
   Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ được thể hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Trong sinh hoạt luôn luôn bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy tốt ý thức đấu tranh tự phê bình và phê bình, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất cao trong cấp uỷ và mối quan hệ công tác giữa cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể.
  Bên cạnh những thành tích đã đạt được vẫn còn những hạn chế: Trong phát triển kinh tế tốc độ tăng trưởng vẫn còn thấp và thiếu tính bền vững, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn cao, hiệu quả chăn nuôi, kinh tế trang trại, làng nghề đạt thấp.
Công tác quản lý đất đai, tài nguyên môi trường còn có lấn chiếm đất xử lý không kịp thời, một số công trình xây dựng kéo dài, chậm tiến độ. Chưa khai thác tốt tài nguyên đất đai, đồi rừng, ao hồ mặt nước và các tiềm năng khác của địa phương. Hợp tác xã dich vụ nông nghiệp hoạt động hiệu quả chưa cao.
Về văn hoá, xã hội, chất lượng giáo dục chưa ngang tầm tiểm năng, ưu thế của địa phương. Cơ sở vật chất đã có đầu tư, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu dạy học ngày càng cao.
   Hoạt động truyền thông dân số chưa có sức thuyết phục, tỷ lệ sinh con lần 3 trở lên và tỷ lệ chênh lệch giới tính còn cao. Chất lượng làng văn hóa, gia đình văn hoá còn thấp. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao có xu hướng chững lại.
  Công tác huấn luyện dân quân tự vệ, tập huấn nghiệp vụ cho công an viên chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Năng lực tham mưu giải quyết các vụ việc của công an viên, thôn đội trưởng còn hạn chế.
Về xây dựng chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trên một số lĩnh vực còn hạn chế trong công tác quản lý nhà nước. Cải cách hành chính tuy có bước chuyển biến song chưa đáp ứng yêu cầu. Phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chậm đổi mới, triển khai các phong trào thi đua chưa đồng đều, chất lượng sinh hoạt các chi đoàn, chi hội chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay.
    Nội dung sinh hoạt chi bộ, đảng bộ chậm được đổi mới, tính tiên phong gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên còn thấp. Thực hiện Chỉ thị 03 - CT/TW về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Nghị quyết TW4 về xây dựng Đảng kết quả chưa cao. Công tác tổ chức cán bộ còn bất cập, số lượng cán bộ nguồn có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để đào tạo, bố trí thay thế còn ít, nhất là nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Phát triển đảng viên mới còn gặp khó khăn, nhiều chi bộ nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên mới.
    Từ  những kết quả đạt được và những hạn chế, Đại hội quyết nghị phương hướng, nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu đề ra trong 5 năm (2015 - 2020). Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế trên địa bàn, nắm bắt thời cơ thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chủ trương, chính sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, tiếp tục chuyển dịch mãnh mẽ về cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội. Xây dựng chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội vững mạnh, phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, kế hoạch Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra.
  Đại hội đã đề ra nhiệm vụ, các chỉ tiêu và giải pháp chủ yếu trên các lĩnh vực nhằm phát huy tiềm năng nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực để thực hiện tốt các mục tiêu đại hội đề ra.  Với tinh thần Đoàn kết – Sáng tạo – Đổi mới và phát triển, Đảng bộ, nhân dân Nghi Hưng quyết tâm đưa xã nhà phát triển nhanh, bền vững, xây dựng một Hưng văn minh, hạnh phúc.
    Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020. Tổng giá trị sản xuất: 316,292 tỷ đồng, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 96,846 tỷ đồng. Công nghiệp, xây dựng: 165,925 tỷ đồng. Dịch vụ, thương mại: 53,521 tỷ đồng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của giá trị tăng thêm đến năm 2020: Nông, lâm, ngư nghiệp: 39,41%. Công nghiệp, xây dựng: 33,97%. Dịch vụ, thương mại: 26,61%
  Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9,38%. Thu nhập bình quân đầu người 34,75 triệu/người/năm. Xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2018. Thu ngân sách nhà nước đến năm 2020 là 8,5 tỷ đồng. Tổng sản lượng lương thực 3.900 tấn
 Phấn đấu xây dựng trường mầm non, trường tiểu học đạt chuẩn mức độ 2. Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế theo 10 tiêu chí mới. Mức giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 hàng năm 1%, tỷ lệ phát triển dân số hàng năm: 0,75.%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 12%. Hộ nghèo dưới 3%. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề 55%. Xóm văn hoá 12/15xóm, gia đình văn hoá đạt 85%. Hộ dân dùng nước hợp vệ sinh 100%. Tỷ lệ che phủ rừng 41,6%. Thu gom rác thải đạt  trên 90%. Xây dựng xã vững mạnh về quốc phòng, an ninh.
   Nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Chi bộ trong sạch vững mạnh hàng năm đạt 70% trở lên. Có 100% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ,  hàng năm kết nạp 6 đến 8 đảng viên.
 Chính quyền, Mặt trân Tổ quốc và các đoàn thể hàng năm được xếp loại xuất sắc. Đảng bộ hàng năm được xếp loại trong sạch vững mạnh. Có 100% Cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ đại học về chuyên môn và trung cấp chính trị, 100% các đồng chí ủy viên ban chấp hành có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên và trung cấp chính trị.
  Đại hội đã tập trung cao đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra trên các lĩnh vực có hiệu quả sớm đưa Nghi Hưng trở thành xã phát triển đồng bộ, toàn diện, thực hiện tốt sự nghiệp đổi mới của Đảng.
   Những kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm 2015 - 2020, với tiềm năng và lợi thế của Nghi Hưng, khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý tổ chức thực hiện của chính quyền, sự tham gia tích cực vận động của mặt trận, đoàn thể trong việc nỗ lực phấn đấu khắc phục mọi khó khăn đã đạt được các mục tiêu đề ra.
    Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, của Bộ Chính trị, “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” và Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị; Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương. Thông tri số 07-TT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về tổ chức đại hội Đảng.                 Tháng 5 năm 2020, Đảng bộ Nghi Hưng tổ chức Đại hội đại biểu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kì 2015 - 2020 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kì 2020 - 2025. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành, bầu đồng chí Nguyễn Đình Hoàng làm Bí thư, đồng chí Bùi Văn Bình Phó Bí thư Thường trực, phân công đồng chí Nguyễn Viết Thanh, Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, đồng chí  Hoàng Văn Long, Uỷ viên Ban Thường vụ, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí Nguyễn Văn Khai Uỷ viên Ban Thường vụ, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Thanh Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
  Đại hội diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước đã giành được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã không ngừng nỗ lực vượt qua những khó khăn, thách thức hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khoá 2015 - 2020 đề ra.
   Đảng bộ Nghi Hưng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015 - 2020 (khoá XXX) trong điều kiện có nhiều thuận lợi cơ bản: Đặc biệt, Khu kinh tế Đông Nam, khu công nghiệp Nam Cấm với nhiều nhà máy, xí nghiệp đi vào hoạt động đã tạo điều kiện giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư đồng bộ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Với tinh thần đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong Đảng và nhân dân tiếp tục được củng cố và tăng cường, đã tạo thế và lực cho địa phương trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển, địa phương cũng gặp không ít khó khăn: Là xã còn có cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, ảnh hưởng bởi quy hoạch khu kinh tế Đông Nam triển khai còn chậm. Tình hình phát triển dịch vụ thương mại không thuận lợi do địa bàn dân cư phân tán và xa các trung tâm kinh tế, xã hội. Nhân dân còn thiếu mạnh dạn trong đầu tư, phát triển kinh tế; tư duy, năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo cơ sở chưa ngang tầm yều cầu nhiệm vụ.
          Phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách để lãnh đạo thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ khóa XXX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đề ra.
  Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Sau 5 năm triển khai thực hiện có 9/9 chỉ tiêu đều đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm đạt 100,06% so với Nghị quyết Đại hội, tổng giá trị sản xuất đến năm 2020 (theo giá so sánh 2010) đạt 277,447 tỷ đồng, đạt 109,5% so với Nghị quyết Đại hội. Trong đó, giá trị nông, lâm nghiệp đạt 72,2 tỷ đồng, công nghiệp, xây dựng đạt 166 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Nông, lâm nghiệp chiếm 33,52%, vượt 10,6%, công nghiệp, xây dựng chiếm 43,36%, vượt 27%. Sản lượng lương thực đạt 4.881 tấn, đạt 125% so với Nghị quyết Đại hội. Thu nhập bình quân đạt 36,5 triệu/người/năm, tăng 13,6 so với đầu nhiệm kỳ.
 Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá. Hoàn thành các tiêu chí và về đích Nông thôn mới năm 2019. Là địa phương duy trì đều sản xuất cả 3 vụ. Công tác chỉ đạo sản xuất tích cực, hệ thống phục vụ sản xuất đáp ứng yêu cầu của nông dân.Trong chăn nuôi nhiều hộ gia đình đã đầu tư trang trại, gia trại theo quy mô lớn, hàng năm cho thu nhập hàng trăm triệu đồng,  Phối hợp với Ban quản lý rừng phòng hộ Nghi Lộc đưa gần 300 ha rừng thông vào khai thác nhựa, tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động địa phương.
 Năm 2019, thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-HĐND, ngày 12.7. 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An khoá XVII thông qua tại kỳ họp thứ 10 về việc sáp nhập và đổi tên các xóm trên địa bàn tình Nghệ An, huyện Nghi Lộc sẽ sáp nhập 338 xóm tại 28 xã, thị trấn thành 142 xóm. Nghi Hưng tiến hành sát nhập từ 15 xóm xuống thành 6 xóm: 1,2,3,4,5,6.  Xóm cũ 2, 3 thành xóm 3 mới (làng cũ Tam Đa), xóm cũ 3,5,6 thành xóm 2 mới ( làng cũ Khăm Đồng, Đồng Cương), xóm cũ 7,8,9 thành xóm 3 mới ( làng cũ Chại khế, Rú Dẻ), xóm cũ 10, 11 thành xóm 4 mới ( làng cũ Xuân Sơn, Khe Cù),
xóm cũ 12, 13, 14 thành xóm 5 mới ( làng cũ Khe Cù, Thái Yên, Bắc Hưng), xóm cũ 15, 1 thành xóm 6 mới ( làng cũ Bắc Hưng, Hưng Vận).
   Cấp ủy, chính quyền xã đã chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm cao, các chương trình, đề án sát với thực tiễn, hợp lòng dân, hệ thống chính trị vào cuộc tích cực, nhân dân đồng thuận cao đã tạo nên phong trào thi đua sôi nổi, có sức lan tỏa nhanh và mạnh trong các đoàn thể chính trị, xã hội và ở các xóm. Với việc tranh thủ được các nguồn lực từ ngân sách các cấp là 61 tỷ đồng, đặc biệt, huy động nội lực trong nhân dân được 84,1 tỷ đồng, xây dựng hàng trăm công trình dân sinh, kinh tế, văn hóa, xã hội khá đồng bộ, hạ tầng cơ sở điện, đường, trường, trạm đạt chuẩn. Các đoàn thể chính trị, xã hội đều thực hiện được mô hình dân vận trong xây dựng nông thôn mới. Năm 2019, Nghi Hưng đạt 19/19 tiêu chí, hoàn thành mục tiêu xây dựng Nông thôn mới tạo ra niềm tin, động lực lớn cho nhân dân phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống xây dựng một Nghi Hưng văn minh, giàu đẹp, hạnh phúc.
Công nghiệp, xây dựng tiếp tục tăng trưởng góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Hoạt động công ty sản xuất vật liệu xây dựng Quang Giang quy mô ngày càng được mở rộng, làng nghề chổi đót Xuân Sơn, Khe Cù tiếp tục được duy trì.
   Trong 5 năm, đã tranh thủ các nguồn lực để xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều công trình như: công trình đường về vùng lũ, tu sửa, nâng cấp hệ thống phòng học, phòng chức năng và khuôn viên trường trung học cơ sở, trường tiểu học, trường mầm non, tu sửa, nâng cấp đài tưởng niệm, xây dựng nhà truyền thống, sân vận động trung tâm, làm mới 33 km đường bê tông nông thôn, 18 km kênh mương. Trên địa bàn xã có 21 nhà thầu xây dựng các công trình, giải quyết việc làm ổn định cho 300 lao động  có việc làm thường xuyên. Trên địa bàn xã có 138 hộ gia đình kinh doanh các loại hình dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế và dời sống nhân dân. Có khu khu du lịch sinh thái Đại Huệ ở xóm 3, với diện tích hơn 30 ha.
 Tập trung làm tốt công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng một số công trình hạ tầng nông thôn.Tiến hành quy hoạch đất ở các khu dân cư đáp ứng nhu cầu đất ở cho nhân dân và tăng thu ngân sách cho địa phương. Công tác truyền thông bảo vệ môi trường thực hiện có hiệu quả, hạn chế nước thải chăn nuôi gây ô nhiễm. Làm tốt việc thu gom, vận chuyển rác thải đến nơi xử lý tập trung theo quy định. Uỷ ban nhân dân xã đã tập trung khai thác hết các nguồn thu, đảm bảo thu, chi ngân sách đúng luật định, đáp ứng tốt nhiệm vụ chi thường xuyên và đầu tư phát triển.
Lĩnh vực văn hoá, xã hội có nhiều chuyển biến, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Công tác giáo, dục đào tạo đạt nhiều kết quả: Cơ sở vật chất tiếp tục được đầu tư nâng cấp đáp ứng yêu cầu dạy và học. Số giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp và số học sinh thi đậu vào các trường đại học hàng năm đều tăng. Cả 3 trường đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, trường mầm non đang tập trung xây dựng đạt chuẩn quốc gia mức độ 2.
  Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trên địa bàn xã thực hiện tốt công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, góp phần giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn 11%. Cơ sở vật chất được đầu tư cơ bản, cán bộ chuyên môn được bố trí đủ số lượng, các xóm đều có cán bộ y tế; xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế.
 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền công tác dân số, tổ chức tốt các chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản. Duy trì mức sinh hợp lý, tỷ lệ phát triển dân số ổn định dưới 0,75%.  Luôn quan tâm chăm sóc trẻ em, đặc biệt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tàn tật.
 Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được luôn đẩy mạnh, có 100% xóm và 3 dòng họ đạt danh hiệu văn hoá, tỷ lệ gia đình văn hóa chiếm 87%, tăng 2% so với Nghị quyết Đại hội. Trong 5 năm huy động được hơn 4 tỷ đồng để nâng cấp, mua sắm trang thiết bị nhà văn hóa xã, xóm. Ủy ban nhân dân xã, các ngành, đoàn thể phối hợp tổ chức nhiều loại hình tuyên truyền như: hội nghị, hệ thống truyền thanh, sơ tổng kết, thông tin nội bộ, về chính sách, luật... nhất là chủ trương về xây dựng nông thôn mới, đã làm thay đổi nhận thức, tạo được sự đồng thuận và hưởng ứng tích cực của nhân dân.
          Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được duy trì và phát triển. Có 6/6 xóm và các trường học có sân luyện tập, giao lưu và thi đấu thể thao. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, tham gia các hội thi, hội diễn văn nghệ tại huyện đạt kết quả cao. Năm 2019, xã đã thành lập 1 câu lạc bộ dân ca ví dặm để thúc đẩy phong trào văn nghệ trong quần chúng nhân dân; xây dựng hình ảnh truyền thống của xã sau 65 năm thành lập và phát triển.
Công tác giải quyết việc làm cho người lao động đã chủ động phối hợp với các trường đào tạo nghề mở 4 lớp sơ cấp nghề cho hơn 160 lao động, tư vấn cho hơn 200 lượt người về xuất khẩu lao động. Công tác an sinh xã hội được quan tâm giải quyết kịp thời. Các hoạt động từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa được triển khai rộng khắp thu hút nhiều cá nhân và tổ chức tham gia. Việc tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình có công, gia đình chính sách và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được thực hiện tốt.
   Đảng ủy, chính quyền xã quan tâm lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh góp phần củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, giữ vững ổn định chính trị trong mọi thời điểm. Công tác khám tuyển gọi thanh niên nhập ngũ và đón quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương, bổ sung vào các đơn vị dự bị động viên hoàn thành với kết quả cao. Các lực lượng trong xã tham gia tổ chức diễn tập đạt loại giỏi.
  Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc” được tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt. Làm tốt công tác quản lý nhân khẩu, giữ vững địa bàn trong sạch, không có tệ nạn xã hội. 
   Công tác xây dựng Đảng được cấp uỷ xác định rõ là nhiệm vụ trọng tâm, theo chốt ở các lĩnh vực hoạt động trên địa bàn xã. Công tác giáo dục, chính trị tư tưởng có nhiều đổi mới, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ, kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên tự xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong nhiệm kỳ, đã xây dựng được 2 tập thể, 3 cá nhân điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác.
Tập trung làm tốt công tác củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng, chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Nghị quyết 03-NQ/HU, Đề án 02-ĐA/HU, ngày 15/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về “Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, thị trấn giai đoạn 2016 -  2020”, Đề án 01 - ĐA/TU của Tỉnh ủy về “Xây dựng chi bộ, phát triển đảng viên ở các khối, xóm chưa có chi bộ, chưa có đảng viên . Triển khai xây dựng các kế hoạch, đề án để thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Năm 2020, Nghi Hưng tiến hành sáp nhập văn phòng Đảng ủy với văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và chỉ đạo thành công đại hội chi bộ, đại hội xóm nhiệm kỳ 2020 - 2023 đảm bảo đúng định hướng, đồng thời kiện toàn các tổ chức đoàn thể ở các xóm.
   Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là việc thực hiện Quy định 126, Chỉ thị 39 của Bộ Chính trị và thực hiện tốt việc thẩm định tiêu chuẩn chính trị, xác minh văn bằng, chứng chỉ, đặc biệt là nhân sự trong quy hoạch cho cấp ủy khóa mới. Hàng năm, số lượng đảng viên được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 90%. Việc bồi dưỡng phát triển đảng viên mới, trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 27 đảng viên mới.
    Cấp ủy, Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ thực hiện nghiêm quy định của điều 30, 32  Điều lệ Đảng và hướng dẫn của cấp ủy cấp trên, xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án số 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn huyện giai đoạn 2017 - 2020 và những năm tiếp theo”. Chủ động xây dựng và triển khai kịp thời chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm. Hàng năm, đều được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị triển khai nghiêm túc quy chế công tác dân vận. Chất lượng hoạt động của khối dân vận, tổ dân vận ngày được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác dân vận trong tình hình mới. Các phong trào thi đua được đẩy mạnh, phong trào “Dân vận khéo” được triển khai sâu rộng, có chất lượng. Trong nhiệm kỳ, hệ thống khối dân vận đã xây dựng 105 mô hình dân vận khéo trên các lĩnh vực, nhiều mô hình đã phát huy có hiệu quả, có sức lan tỏa rộng rãi như : mô hình đường hoa thay cỏ dại của Hội Phụ nữ xã, vận động nhân dân hiến đất, tài sản trên đất làm đường bê tông, điển hình có xóm 5 ( Khe Cù), xóm 2 (Khăm Đồng), xóm 5( Bắc Hưng)… góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đã đề ra.
 Hội đồng nhân dân xã luôn nâng cao trong việc giám sát, tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, giải quyết các vấn đề mà cử tri quan tâm. Năng lực, hiệu quả điều hành, quản lý của chính quyền có nhiều chuyển biến rõ nét, nhất là trong công tác cải cách hành chính, xây dựng cơ bản, xây dựng kế hoạch thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII)... Hàng năm Uỷ ban nhân dân xã phối hợp với Công đoàn xã tổ chức xây dựng, bổ sung quy chế dân chủ ở cơ quan tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc; cán bộ, công chức phát huy vai trò, trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân ngày càng nâng lên.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể đã chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực và hiệu quả, đa dạng các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, hội viên, đoàn viên, chăm lo đời sống, quan tâm nắm bắt tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên. Tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và động viên nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phát huy tốt vai trò, chức năng giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phối hợp tổ chức các cuộc đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân có chất lượng.
  Hàng năm các tổ chức đều được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên  xã nhiều năm trong nhiệm kỳ được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
 Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của địa phương, nhất là trong chăn nuôi gia súc, thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành nông nghiệp còn chậm, xây dựng cánh đồng cho thu nhập cao chưa ổn định, thiếu giải pháp tổ chức sản xuất một số diện tích đất vùng sâu trũng. Công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ phát triển chậm, không đồng đều ở địa bàn các xóm. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên vẫn còn khó khăn. Thu ngân sách trên địa bàn chưa đáp ứng được cho đầu tư xây dựng hạ tầng.
Chất lượng giáo dục mũi nhọn càn hạn chế, xây dựng trường tiểu học và trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 chưa dạt. Tỷ lệ sinh con thứ 3 còn cao, duy trì, phát huy danh hiệu làng văn hóa, đơn vị văn hóa, gia đình văn hóa tại một số xóm hiệu quả thấp.  Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao chưa được duy trì thường xuyên. Công tác giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là định hướng, chuyển đổi ngành nghề cho con em chưa được nhiều.
    Công tác xây dựng Đảng có chỉ tiêu không đạt: Kết nạp được 27/30 đảng viên, cán bộ, công chức xã có trình độ trung cấp lý luận chính trị mới đạt 83%. Việc khắc phục tồn tại, hạn chế sau kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) chuyển biến chưa mạnh, xây dựng và nhân rộng điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn còn ít, sức lan tỏa chưa nhiều. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện tính tiên phong gương mẫu còn một số ít đảng viên tinh thần trách nhiệm chưa cao.
Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, các đại biểu chưa thực sự rõ nét. Hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực đất đai còn khó khăn. Vai trò trách nhiệm, năng lực của một số vị đại biểu Hội đồng nhân dân chưa cao, nhất là thực hiện chức năng giám sát nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội về  phối hợp và tuyên truyền đẩy mạnh phong trào thi đua chưa tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
   Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản (32/36 chỉ tiêu) Nghị quyết Đại hội đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng; phong trào toàn dân chung tay xây dựng Nông thôn mới được đẩy mạnh, xã về đích Nông thôn mới năm 2019. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả. Đảng bộ 3/5 năm được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong đó, năm 2019 được cấp uỷ huyện đánh giá xếp loại đảng bộ “Trong sạch vững mạnh” tiêu biểu, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội hàng năm đều được xếp loại hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
   Từ những kết quả đạt được và những tồn tại khuyết điểm, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cho nhiệm kì 2020 – 2025.  Bước vào giai đoạn 2020 - 2025, dự báo nền kinh tế của đất nước cơ bản ổn định và phát triển. Đảng và Nhà nước ta tiếp tục có nhiều chủ trương, chính sách đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Sự phát triển của các cụm công nghiệp và khu kinh tế Đông Nam sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế của huyện cũng như của địa phương. Hạ tầng kinh tế, nguồn nhân lực, tiềm năng, lợi thế của địa phương tiếp tục được khai thác và phát huy trong điều kiện mới.
          Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, vai trò điều hành, quản lý của chính quyền, đổi mới và nâng cao chất lương hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Tập trung khai thác mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp gắn với hiện đại hoá nông nghiệp. Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Giữ vững quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị từ xã đến xóm thực sự vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Phấn đấu xây dựng Nghi Hưng đạt Nông thôn mới nâng cao năm 2024. 
   Đại hội đề ra các chỉ tiêu cụ thể trên các lĩnh vực: Tổng giá trị sản xuất là 467,122 tỷ đồng (giá so sánh), trong đó nông, lâm nghiệp 90,560 tỷ đồng, công nghiệp, xây dựng: 310,534 tỷ đồng, thương mại, dịch vụ: 66,028 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt từ 9,0% - 10,0%. Cơ cấu nông, lâm nghiệp: 26,51%, công nghiệp, xây dựng: 48,50%, thương mại, dịch vụ: 24,99%.
Tăng thu ngân sách trên địa bàn hàng năm đạt 8,0% - 8,5%; tổng thu ngân sách đến năm 2025 đạt 21,13 tỷ, trong đó thu ngân sách trên địa bàn 2,5tỷ. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2025 đạt 57 triệu/người/năm. Xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2024.
Xây dựng trường tiểu học, trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 2.  Duy trì xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế. Tỷ lệ xóm đạt danh hiệu văn hoá 100% (6/6 xóm). Gia đình văn hoá 90%.  Tỷ lệ xóm có thiết chế văn hóa, thể thao đạt chuẩn 100%. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm dưới 0,1%. Mức giảm tỷ lệ sinh đến năm 2025 còn 1,2%. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới 11%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2025 dưới 1%. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề 75%. Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm là 110 người.  Có 100%. hộ dân dùng nước hợp vệ sinh, thu gom, xử lý rác thải đạt 100%. Độ che phủ rừng 39,7%. Xây dựng xã đạt cơ cở an toàn làm chủ vững mạnh toàn diện.
Hàng năm Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, có 90% số chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hàng năm đạt 85%. Mỗi năm kết nạp từ 5 - 6 đảng viên. Đảm bảo 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn đại học, trung cấp lý luận chính trị. Có 100% cán bộ, công chức có hộp thư điện tử, ứng dụng và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin.
Để thực hiện tốt các chỉ tiêu, Đại hội Đảng bộ xã đã đưa ra các giải pháp cụ thể trên các lĩnh vực để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động sớm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2020 -2025.
  Đại hội Đảng bộ đánh giá ghi nhận những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân xã nhà đã đạt được trong 5 năm qua, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020 – 2025. Với tinh thần “ Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, đổi mới và phát triển”. Đảng bộ, nhân dân Nghi Hưng quyết tâm đưa xã nhà phát triển nhanh, bền vững, xây dựng một Nghi Hưng văn minh, hạnh phúc.
    Tháng 3 năm 2023, sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2020- 2025, Ban Chấp hành Đảng bộ xã tổ chức hội nghị đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sớm hoàn thành tốt nghị quyết đại hội đề ra. Sau đại hội, cấp uỷ đã ban hành 14 nghị quyết chuyên đề, đề án, chương trình hành động trên các lĩnh vực. Kết quả đạt được trên các lĩnh vực đã ghi nhận quyết tâm, nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân.  
Về phát triển kinh tế có 6 chỉ tiêu, cơ bản đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10,12%, tổng giá trị sản xuất đến năm 2022 (theo giá so sánh 2010)  đạt 538,587 tỷ đồng, đạt 115,3% so với Nghị quyết Đại hội. Trong đó, giá trị nông, lâm nghiệp đạt 108,9 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 302,555 tỷ đồng, thương mại dịch vụ 137,621. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nông, lâm nghiệp chiếm 18,31%, vượt 8,2%, công nghiệp,xây dựng chiếm 56,14%, vượt 8,09%, thương mại, dịch vụ chiếm 25,55%, vượt 0,56%. Xây dựng nông thôn mới nâng cao đã đạt 11/18 tiêu chí (theo chuẩn mới). Thu nhập bình quân đạt 51,7 triệu/người/năm, tăng 15,2 triệu đồng so với đầu nhiệm kỳ.
Nông nghiệp, nông thôn có nhiều khởi sắc, thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới được đẩy mạnh. Xây dựng thành công mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Hưng Long faml với diện tích hơn 1ha, hiện đã bao phủ nhà lưới 2.500m2, bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao, sản phẩm đạt chất lượng VIEGAP năm 2022,( Bỏ tiến tới) đạt sản phẩm OCOP trong năm 2023. Xây dựng mô hình nuôi lợn nái sinh sản quy mô 1000 con lợn con/năm, 300 lợn thịt/năm; duy trì mở rộng các mô hình 2 trang trại chăn nuôi gà, chăn nuôi gia cầm kết hợp với thủy cầm; xây dựng 03 mô hình lúa chất lượng cao với diện tích 85 ha.  
  Công nghiệp, xây dựng tiếp tục tăng trưởng góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động. Triển khai xây dựng các công trình như: công trình trường tiểu học, trường mầm non, nhà văn hóa xóm 2, xóm 5, tiếp tục triển khai làm mới 2 km đường bê tông nông thôn...
   Dịch vụ thương mại ngày càng phát triển, các khu công nghiệp, khu kinh tế Đông Nam, đã thu hút và chuyển dịch được một lực lượng lớn lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. (bỏ tham gia). Thêm vào  - Hình thành khu du lịch sinh thái ĐẠi Huệ, nhà hàng dịch vụ Quốc Đại, các dịch vụ  đưa, đón công nhân, học sinh. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên môi trường được Uỷ ban nhân dân xã thực hiện nghiêm túc. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng được phối hợp với cơ quan nhà nước cấp trên tổ chức lập hồ sơ bồi thường nhanh gọn. Phối hợp lập hồ sơ giải phóng mặt bằng cho 211 ha của dự án khu công nghiệp WHA, 0,5ha đất ở và bổ sung quy hoạch đất ở, đất công cộng trên địa bàn xã trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
 Công tác thu, chi ngân sách đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đáp ứng tốt nhiệm vụ chi thường xuyên và đầu tư phát triển. Hầu hết các nguồn thu đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch.
  Chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 100%; việc huy động học sinh ở các bậc học đều đạt kế hoạch đề ra. Năm 2022, trường Trung học cơ sở Hưng - Đồng được Sở Giáo dục và đào tạo Nghệ An đánh giá đạt tiêu chuẩn Quốc gia mức độ 1, kiểm định chất lượng đạt mức độ 2, phổ cập giáo dục đạt cấp độ 2, xóa mù chữ đạt mức độ 3. Làm tốt công tác hướng nghiệp dạy nghề; đào tạo nghề cho nông dân, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, đời sống.      Phát triển văn hóa, thông tin, truyền thông, thể dục, thể thao được duy trì và phát triển đều trên các mặt hoạ động. Triển khai tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao trong các dịp lễ hội. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Chất lượng gia đình văn hóa và làng văn hóa được nâng lên, tỷ lệ gia đình đạt gia đình văn hóa 89,2% (tăng 2,2% so với đầu nhiệm kỳ), 6/6 xóm được công nhận danh hiệu khu dân cư văn hóa, 100% xóm có nhà văn hóa và sân tập thể thao, đồng thời thiết chế trong nhà văn hóa đã từng bước được bổ sung theo chuẩn Nông thôn mới, xây mới 2 nhà văn hóa xóm.
 Công tác y tế  thực hiện tốt các biện pháp phòng chống và tiêm phòng Vắc xin phòng Covid-19, các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế. Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình phối hợp với đoàn thanh niên, hội phụ nữ, tư pháp tổ chức tuyền truyền chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Thực hiện tốt công tác lao động có việc làm và an sinh xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội.
Công tác giảm nghèo hỗ trợ xây mới 15 nhà ở cho hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của xã theo chuẩn mới năm 2023 là 2,88%. Tích cực tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 97,8%, bảo hiểm xã hội. Số lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 30% trong đó bảo hiểm tự nguyện 4,56% tăng 3% so với năm 2020.
  Tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, tổ chức tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” được tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt. Phối hợp bố trí lực lượng công an chính quy đảm bảo, chủ động xây dựng và triển khai các kế hoạch tấn công trấn áp tội phạm và kế hoạch đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn. Duy trì hoạt động của các tổ tự quản ở khu dân cư, xây dựng mô hình tổ tuần tra nhân dân tại xóm 5, xóm 1 bước đầu hoạt động có hiệu quả.
 Thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đẩy mạnh. Sau quán triệt, học tập tổ chức cho cán bộ, đảng viên viết bài thu hoạch và xây dựng chương trình hành động phù hợp  với điều kiện của địa phương.
 Cấp uỷ tập trung chỉ đạo việc thực hiện Quy định số 08 – QĐ/TU về đáng giá chất lượng chi bộ, phân công cán các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ban chấp hành, trực tiếp tham gia và đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ. Tiếp tục triển khai các kế hoạch, đề án để thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Chỉ đạo thành công đại hội chi bộ, hội nghị bầu xóm trưởng nhiệm kỳ 2022 - 2025 đảm bảo đúng định hướng về công tác nhân sự, đồng thời kiện toàn Ban công tác mặt trận ở các xóm; chất lượng đội ngũ cán bộ từ các chi ủy ngày càng được nâng lên.
 Các phong trào thi đua “Dân vận khéo” được triển khai sâu rộng, có chất lượng. Trong nửa nhiệm kỳ, hệ thống khối dân vận đã xây dựng 63 mô hình dân vận khéo trên các lĩnh vực, nhiều mô hình đã phát huy có hiệu quả, có sức lan tỏa rộng rãi như: mô hình Câu lạc bộ Gia đình 5 không, 3 sạch, Câu lạc bộ Gia đình hạnh phúc, mô hình biến rác thải thành phân vi sinh của Hội Phụ nữ xã, mô hình xây nhà tình nghĩa của Mặt trận Tổ quốc, vận động nhân dân, hộiviên giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án trên địa bàn của xóm 1 và Hội Cựu chiến binh, mô hình đoạn đường- xanh - sạch - đẹp của xóm 2.
 Trong nửa đầu nhiệm kỳ, Đảng uỷ, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy đã kiểm tra, giám sát 24 cuộc với 20 lượt các chi bộ, 9 lượt cán bộ, đảng viên. Qua kiểm tra đã kịp thời xử lý kỷ luật những đảng viên vi phạm các nguyên tắc, điều lệ Đảng, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
   Hoạt động của Hội đồng nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giám sát, tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, giải quyết các vấn đề mà cử tri quan tâm. Hoạt động của các ban, các đại biểu Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân được nâng lên khá rõ nét.
  Điều hành, quản lý của chính quyền có nhiều chuyển biến rõ nét trong công tác cải cách hành chính, phát triển kinh tế dịch vụ..
  Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực và hiệu quả; đa dạng các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, hội viên, đoàn viên; chăm lo đời sống, quan tâm nắm bắt tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên. Tuyên truyền vận động nhân dân giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án trên địa bàn. Phát huy vai trò, chức năng giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phối hợp tổ chức các cuộc đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân có chất lượng. Tích cực động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động, đặc biệt là phong trào xây dựng nông thôn mới nâng cao.  Các tổ chức đều được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ 2 năm liền được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
 Bên cạnh những kết quả  đã đạt được vẫn còn những hạn chế:. Trong sản xuất nông nghiệp chưa có nhiều mô hình sản xuất cho thu nhập cao. Chưa có được đề án “Phát triển ngành nghề, dịch vụ thương mại trên địa bàn xã”. Việc hoàn thiện các khu quy hoạch đấu giá đất còn chậm. Thiếu định hướng duy trì phát triển làng nghề, các loại hình dịch vụ còn phân tán nhỏ lẻ, việc liên kết hoạt động còn khó khăn, hợp tác xã dịch vụ hoạt động chưa phong phú, đa dạng. Công tác vệ sinh môi trường vẫn còn ô nhiễm môi trường ở một số cụm dân cư.
 Chất lượng các danh hiệu văn hóa đã được công nhận có một số tiêu chí chất lượng chưa cao. Hiệu quả từ công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động hiệu quả thấp. Cơ sở, vật chất trạm y tế chưa được đầu tư đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân
 Công tác xây dựng Đảng một số chỉ tiêu đạt thấp: kết nạp được 9/25-30 đảng viên, tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt trở lên năm 2021 đạt 81/90% chỉ tiêu. Việc khắc phục tồn tại, hạn chế sau kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) chuyển biến chưa mạnh, việc xây dựng và nhân rộng điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn còn ít, sức lan tỏa chưa nhiều.
 Công tác kiểm tra, giám sát chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc kiểm tra việc thực hiện tính tiên phong gương mẫu theo Quy định 101, Quy định 37 - QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm và việc thực hiện nhiệm vụ chức trách được giao.
  Chỉ đạo xây dựng mô hình “Dân vận khéo” chưa thực sự rõ nét, một số ngành, đoàn thể tuy đã quan tâm triển khai thực hiện nhưng chưa thật hiệu quả.
 Vai trò giám sát của Hồng đồng nhân dân, các đại biểu chưa thực sự rõ nét. Hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, môi trường, việc tổ chức triển khai giải quyết một số kiến nghị của cử tri chưa kịp thời.
 Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội về thực hiện Quyết định 217, 218 còn hạn chế, nhất là việc phát huy chức năng phản biện xã hội. Tổ chức giám sát hiệu quả chưa cao, thực hiện giám sát chuyên đề còn ít. Tham gia góp ý xây dựng Đảng chưa nhiều, phát hiện giới thiệu nguồn phát triển đảng viên còn hạn chế. Chất lượng hoạt động của một số chi đoàn, chi hội sau sáp nhập chuyển biến chậm.
    Từ  những kết quả đạt được và những hạn chế, hội nghị đảng bộ đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện hoàn thành các mục tiêu mà đại hội đề ra đầu nhiệm kỳ 2020 -2025.
  Trải qua hơn gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, Nghi Hưng đã tạo được bước chuyển mạnh mẽ trên các lĩnh vực, ghi lại dấu ấn trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ và nhân dân. Với những kết quả đạt được sẽ là tiền đề vững chắc đưa Nghi Hưng vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.                                         

PHẦN KẾT
    Vùng đất Nghi Hưng trong sự tạo hoá của thiên nhiên từ những dãy núi cao, khe suối tạo nên những  bãi bồi hoang sơ đan xen những hồ đầm, lạch nước, rồi trong sự biến động của lịch sử con người đã hồi tụ về đây khai phá đất đai rừng bãi, cải tạo hồ đầm để sinh tồn, hình thành những xóm làng cư dân phát triển hoà cùng dòng chảy lịch sử dân tộc. Sự quần tụ dân cư với nhiều dòng họ, chi nhánh riêng biệt cùng hoà huyết trở thành cư dân "bản địa". Các thế hệ nối tiếp bằng trí thông minh, sáng tạo, lao động cần cù, đoàn kết vượt lên mọi khó khăn gian khổ để chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt với nắng hạn, bão tố để xây dựng và bảo vệ cuộc sống. Và chính thiên tai làm cho con người nơi đây cố kết cùng nhau, đồng sức, đồng lòng vượt qua bão tố, đói nghèo, lạc hậu để xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc.
  Dưới các triều đại phong kiến vùng đất này chứng kiến, ghi nhận nhiều cuộc chiến tranh, nhiều lớp người ở Nghi Hưng đã tham gia vào cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhưng độc lập dân tộc dưới triều đại phong kiến không mang lại đời sống ẩm no cho nhân dân.
   Đến giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, cả dân tộc cũng như nhân dân Nghi Hưng lại phải sống trong cảnh nô lệ một cổ “hai tròng”. Nhiều cuộc vùng lên đấu tranh của nhân dân muốn tự giải phóng mình, nhưng tất cả đều không tìm được hướng đi đúng. Mặc dầu với lòng yêu nước cháy bỏng dưới ngọn cờ cứu nước của các sĩ phu đương thời, nhân dân tích cực tham gia hưởng ứng, thế nhưng đất nước vẫn nằm trong vòng “kim cô” không lối thoát.
Ngày 3. 2. 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chính trị đúng đắn, hợp quy luật, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh với phương pháp cách mạng thông minh, sáng tạo. Trong suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua các phong trào cách mạng 1930 -1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, nhân dân Nghi Hưng phải đương đầu với chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, chịu đựng gian khổ hi sinh, đoàn kết đấu tranh bảo vệ cán bộ, bảo vệ Đảng. Đồng thời, tích cực xây dựng lực lượng cách mạng, tuyên truyền giác ngộ, củng cố niềm tin cho nhân dân, hăng hái tham gia đấu tranh cách mạng, nắm bắt thời cơ giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám 1945.
Không từ bỏ âm mưu xâm lược, thực dân Pháp quay lại đánh chiếm nước ta. Suốt 9 năm trường kì kháng chiến, nhân dân Nghi Hưng đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương, chi viện sức người, sức của cho các chiến trường góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt sự xâm lựơc của thực dân Pháp trên đất nước ta. Hoà bình được lập lại ở miền Bắc, nhân dân Nghi Hưng lại bắt tay vào khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất về cải tạo, xây dựng xã hội chủ nghĩa, các lực lượng quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã tích cực tham gia trong các phong trào thi đua sôi nôỉ xây dựng quê hương, hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch, nghĩa vụ nhà nước giao.
Trong lúc phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội đang phát triển mạnh mẽ thì đế quốc Mỹ lại dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Nghi Hưng là vùng trọng điểm đánh phá của địch, vì vậy, Đảng bộ và nhân dân đã phải đương đầu với nhiều thử thách, khó khăn, gian khổ trong lao động sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu dưới làn bom đạn của đế quốc Mỹ. Với tinh thần quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch, cán bộ, đảng viên, nhân dân Nghi Hưng đã đoàn kết, dũng cảm, kiên cường, sáng tạo, mưu trí, phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng vượt qua mọi khó khăn giành được thành tích đáng tự hào. Trong hai lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nghi Hưng đã động viên mọi nguồn lực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu giành thắng lợi.
Chiến tranh khốc liệt nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn được bảo đảm, một bộ phận nhân dân chuyển sang làm nhiệm vụ vận tải hàng hoá vào chiến trường, nhờ bám ruộng, bám đồng, đưa khoa học kĩ thuật vào sản xuất nên kinh tế vẫn phát triển. Đảng bộ tích cực phát động toàn dân làm thủy lợi nội đồng, tăng các nguồn phân bón cho các loại cây trồng, mở rộng diện tích giống mới nên ổn định được đời sống nhân dân và làm tốt nghĩa vụ nhà nước. Cùng với sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhân dân Nghi Hưng đã sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Hàng trăm thanh niên tham gia quân đội chiến đấu ở các chiến trường, dân công hoả tuyến phục vụ trên các mặt trận hoàn thành tốt các nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó.
 Trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Nghi Hưng đã đồng sức, đồng lòng, phát huy tốt chủ nghĩa anh hùng cách mạng, làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm xây dựng bảo vệ quê hương và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Chiến tranh chấm dứt, đất nước thống nhất, nhưng nhân dân Nghi Hưng lại đứng trước những khó khăn chồng chất. Hậu quả nặng nề của chiến tranh phá hoại, của hạn hán, bão lụt, mất mùa diễn ra liên tiếp, lại chiến tranh Tây Nam, biên giới phía Bắc. Đặc biệt, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải nỗ lực tìm mọi biện pháp tập trung cao độ dồn sức cho sản xuất. Với chủ trương và cơ chế mới của Đảng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân cả nước cũng như Nghi Hưng nhanh chóng vượt qua khó khăn, ổn định đời sống và phát triển toàn diện.
Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới xây dựng đất nước, Nghi Hưng thực sự đổi mới nhanh chóng và toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội và công tác xây dựng Đảng. Nhiều năm Đảng bộ giữ được danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”, với thành tích to lớn trong hai cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát huy truyền thống anh hùng, Đảng bộ đã tập trung cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy tốt dân chủ cơ sở tạo động lực cho nhân dân phát triển kinh tế, tham gia tốt xây dựng quê hương. Nhờ kinh tế phát triển, nhân dân đoàn kết nên Đảng bộ đã huy động tốt các nguồn nội lực và ngoài lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi làm cho nông thôn ngày càng khởi sắc theo xu hướng đô thị hoá. Các trường học cao tầng được xây dựng, trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, công sở được xây dựng khang trang, hệ thống giao thông nông thôn được rải nhựa, bê tông khắp các thôn xóm. Gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Nghi Hưng  đã đạt được thành tích to lớn, vượt bậc hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
   Lịch sử xã Nghi Hưng cũng là một dòng chảy từ quá khử đến hiện tại và đang tiếp nối mai sau. Chúng ta tin tưởng rằng: những trang sau trong sự kế thừa truyền thống tốt đẹp sẽ là những trang luôn toả sáng cho các thế hệ noi theo.  
 






DANH SÁCH CẤP ỦY QUA CÁC THỜI KỲ
KHOÁ I (Tháng 3.1954 -11.1955)

 
TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Bùi Văn Hình (Nuôi) Bí thư  
2 Đậu Sỹ Thoại PBT - B.thư Nông hội  
3 Phạm Văn Nguôn CT UB  
4 Nguyễn Phú Tụy TV - Tuyên huấn  
5 Nguyễn Văn Hờm Trưởng công an  
6 Hoàng Văn Hải Xã đội  
7 Cao Xuân Khôi BT Đoàn  
8 Nguyễn Thị Tứ Phụ nữ  
9 Hoàng Văn Niên    
10 Trần Hữu Lan PBT Nông hội  

Danh sách bộ máy chính quyền theo Thông tri của Phủ Thủ tướng ngày 4/1/1954. Quyết định của UBHCKC Nghệ An ngày 30 tháng 3 năm 1954
TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Phạm Văn Nguôn Chủ tịch Ủy ban  
2 Nguyễn Đình Xớc (Hước) PCTUBHC  
3 Nguyễn Văn Toan (Tơn) UV thư ký  
4 Nguyễn Văn Đèo UV văn xã  
5 Đinh Bạt Vì (Vũ) Tài chính  
6 Bùi Thị Hải    

Kiện toàn để tiến hành cải cách ruộng đất (tháng 11.1955 - 6.1956)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Thị Chín Bí thư chi bộ
2 Nguyễn Thị Chân PBT- BT Nông hội
3 Nguyễn Văn Bem CT UBHC
4 Hoàng Văn Minh PCT UBHC
5 Cao Thị Duyên Trưởng công an
6 Phạm Văn Đô BT Đoàn
7 Nguyễn Thị Tứ HTPN


Khoá II.  Ngày 16 .6.1956 Hội nghị sửa sai kiện toàn tổ chức sau khi tách làng, lập xã Nghi Đống
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Hoàng Văn Vận (Quốc Toản) Bí thư
2 Trần Hữu Bút PBT - BT Nông hội
3 Ngô Đức Mân CT UB
4 Bùi Văn Ới Trực Đảng
5 Hoàng Văn Hải PCTUB
6 Dương Văn Hếch Trưởng C.an
7 Nguyễn Văn Viết
8 Hoàng Minh Giám BT Đoàn
9 Phạm Thị Tiết HT Phụ nữ
10 Hoàng Văn Cận (Trân) Văn xã
11 Đậu Sỹ Huệ Thống kê
KHOÁ III (  10.4.1958 – 4.1959)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Trần Hữu Bút Bí thư
2 Nguyễn Văn Đèo PBT – BT Nông hội
3 Ngô Đức Mân CT UB
4 Bùi Văn Ới Trực Đảng
5 Hoàng Văn Hải PCT UB
6 Dương Văn Hếch Tr.Công an
7 Nguyễn Văn Viết
8 Hoàng Văn Vận Tuyên huấn
9 Hoàng Văn Giám BT Đoàn
10 Phạm Thị Tiết HTPN
11 Phạm Thị Tiết Văn xã
12 Đậu Sỹ Huệ Thống kê
13 Bùi Văn Thanh (Sử) HTX – GTTL

KHOÁ IV( Tháng 4.1959 – 4.1960)

 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Ới Bí thư
2 Hoàng Văn Giám Chủ tịch UB
3 Bùi Văn Mai Trực Đảng
4 Nguyễn Văn Đèo PCT, P.trách HTX
5 Hoàng Văn Hải Phó Chủ tịch
6 Dương Văn Hếch Trưởng công an
7 Nguyễn Văn Viết Xã đội trưởng
8 Hoàng Quốc Toản Tuyên huấn
9 Bùi Văn Thanh (Sử) Cơ sở
10 Đậu Sỹ Thoại Văn xã
11 Đinh Thị Dung HT Phụ nữ
12 Trần Hữu Hà BT Đoàn
13 Hồ Trung Lộc Cơ sở

KHOÁ V Tháng 4.1960 – 5.1961)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Mai Bí thư
2 Hoàng Văn Giám PBT, Chủ tịch UB
3 Bùi Văn Ới Trực Đảng
4 Hoàng Văn Hải PCT nội chính
5 Nguyễn Văn Viết PCT, HTX
6 Hồ Trung Lộc Tr. công an
7 Nguyễn Văn Ưng Xã đội trưởng
8 Trần Hữu Hà BT Đoàn
9 Nguyễn Văn Nam Cơ sở
10 Bùi Văn Thanh (Sử) Tuyên huấn
11 Đinh Thị Dung PN
12 Đậu Sỹ Thoại Văn xã
13 Trần Hữu Mai Cơ sở
14 Ngô Đức Tý  

KHOÁ VI(Tháng 5.1961 -11.1963)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Hoàng Văn Giám Bí thư
2 Hoàng Văn Hải PBT, Chủ tịch UB (1)
3 Bùi Văn Mai Trực Đảng
4 Hồ Trung Lộc PCT, nội chính
5 Bùi Văn Ới PCT, HTX
6 Đậu Sỹ Thoại UVVH
7 Nguyễn Văn Ưng Xã đội
8 Nguyễn Văn Phương CNHTX
9 Trần Hữu Hà BT Đoàn
10 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
11 Đinh Thị Dung PN
12 Ngô Đức Tý  
13 Nguyễn Văn Nam Cơ sở

KHOÁ VII(Tháng 11.1963 -6.1965)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Hồ Trung Lộc PBT – CT
3 Phạm Văn Tương Trực Đảng
4 Nguyễn Văn Ưng PCT, từ 11.1961
5 Đinh Thị Dung HT Phụ nữ
6 Bùi văn Thanh (Sử) PCNHTX
7 Bùi Văn Ới  
8 Nguyễn Viết Tân VH
9 Trần Văn Cung Trực UB
10 Nguyễn Văn Phương PCT

KHOÁ VIII(Tháng 6.1965 -6.1966)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Hoàng Văn Hải PBT, Chủ tịch UB
3 Bùi Văn Mai Trực Đảng
4 Hồ Trung Lộc PCT, nội chính
5 Lê Phạm Hoàn BT Đoàn
6 Bùi Văn Ới HTX
7 Đinh Thị Dung HT Phụ nữ
8 Trần Văn Cung Trực UB
9 Nguyễn Viết Tân VH
10 Nguyễn Văn Phương PCT - HTX
  Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX

KHOÁ I X(Tháng 6.1966 -6.1967)

 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Phạm Văn Tương Trực Đảng
3 Đinh Thị Dung PBT, Chủ tịch UB
4 Hồ Trung Lộc PCT UB nội chính
5 Nguyễn Văn Phương PCT
6 Bùi Thị Nghi VH
7 Bùi Văn Quang BT Đoàn
8 Phạm Thị Thứ HT Phụ nữ
9 Nguyễn Văn Viết Công an
10 Hoàng văn Hải CNHTX
11 Trần Văn Cung Trực UB
12 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
13 Phạm Văn Hòa (Khánh) PCT
14 Ngô Đức Tý  

KHOÁ X(Tháng 7.1967 -8.1968)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Đinh Thị Dung PBT, Chủ tịch UB
3 Phạm Văn Tương Trực Đảng
4 Hồ Trung Lộc PCT
5 Nguyễn Văn Viết Công an
6 Phạm Thị Thứ HTPN
7 Bùi Thị Nghi VH
8 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
9 Bùi Văn Quang BT Đoàn
10 Hoàng Văn Hải CNHTX
11 Trần Văn Cung Trực UB
12 Nguyễn Văn Phương PCT
13 Trần Hữu Mai HTX

KHOÁ XI(Tháng 9.1968 -8.1970)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Đinh Thị Dung PBT, CT đến 4.1969
3 Hoàng Văn Hải Trực Đảng
4 Ngô Đức Tý PCT UB đến 4.1969
5 Dương Văn Đoa Xã đội
6 Nguyễn Thị Xuân H.T Phụ nữ
7 Hồ Trung Lộc MT
8 Nguyễn Đình Tấn N.Nghề
9 Đậu Thị Nguôn BT Đoàn
10 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
11 Nguyễn Văn Phương PCT từ 4.1969

KHOÁ XII(Tháng 8.1970 -9.1971)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Ngô Đức Tý PBT - Chủ tịch
3 Phạm Văn Tương Trực Đảng
4 Nguyễn Văn Viết PCT - HTX
5 Đinh Thị Dung PCT UB
6 Hồ Trung Lộc Công an
7 Dương Văn Đoa Xã đội
8 Trần Văn Lân Chăn nuôi
9 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
10 Đậu Thị Nguôn BTĐoàn
11 Nguyễn Thị Xuân PN
12 Hồ Trung Đừu Cơ sở
13 Nguyễn Đình Tấn N.Nghề
14 Nguyễn Văn Phương CNHTX
15 Bùi Văn Trương KS HTX - Bí thư chi bộ

KHOÁ XIII(Tháng 9.1971 -7.1973)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Phú Khiếng Bí thư
2 Phạm Văn Tương PBT, Chủ tịch UB
3 Hoàng Văn Vịnh Trực Đảng
4 Nguyễn Văn Viết CNHTX
5 Ngô Đức Tý
6 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
7 Bùi Văn Kế BT Đoàn
8 Hoàng Thị Mai PN
9 Nguyễn Văn Lam PCNHTX
10 Bùi Văn Thanh PCNHTX
11 Lê Phạm Hoàn PCN đến 9.1972
12 Lê Xuân Dũng Ngành nghề

KHOÁ XIV(Tháng 7.1973 -5.1974)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Phạm Văn Tương Bí thư
2 Bùi Văn Thảo PBT - CT
3 Chu Trung Thuần Trực Đảng
4 Nguyễn Phú Khiếng CNHTX
5 Hồ Trung Lộc PCT UB
6 Bùi Văn Thanh (Sử) PCNHTX
7 Đinh Thị Dung PN
8 Chu Văn Thuần TV Tuyên huấn
9 Ngô Đức Mân
10 Bùi Thị Vân BT Đoàn
11 Nguyễn Văn Tuấn MT

KHOÁ XV(Tháng .1974 -9.1975)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Thanh (Sử) Bí thư
2 Bùi Văn Thảo (Thành) PBT, Chủ tịch UB
3 Hoàng Văn Xưng Trực Đảng
4 Nguyễn Phú Khiếng MT
5 Hoàng Văn Đức PCT UB
6 Lê Phạm Hoàn CNHTX
7 Nguyễn Văn Tâm PCNHTX
8 Bùi Thị Vân PN
9 Bùi Văn Quang Đội trưởng
10 Ngô Đức Mân PCN - chăn nuôi
11 Hồ Trung Đức
12 Phạm Văn Thiết BT Đoàn

KHOÁ XVI (Tháng  -9.1975- 3.1977)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Thảo Bí thư
2 Lê Xuân Dũng PBT – CT
3 Bùi Minh Trí Trực Đảng
4 Hoàng Văn Đức PCT. C.an
5 Lê Phạm Hoàn CNHTX
6 Trần Thị Điểm PN
7 Lê Phạm Lý BT Đoàn
8 Hồ Trung Đừu
9 Bùi Văn Thanh (Sử) CTMT
10 Đậu Thị Sương PN
11 Bùi Văn Quang Đội trưởng

KHOÁ XVII (Tháng 4.1977—4.1979)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Lê Phạm Hoàn Bí thư
2 Hoàng Văn Đức PBT, Chủ tịch UB
3 Hoàng Văn Thái Trực Đảng
4 Bùi Đình Nhiệm PCTUB
5 Nguyễn Viết Trọng
6 Nguyễn Minh Tâm MT
7 Đậu Thị Sương PN
8 Đậu Sỹ Công BT Đoàn
9 Bùi Văn Kế CNHTX
10 Nguyễn Văn Lam  
11 Lê Xuân Dũng HTX tín dụng

KHOÁ XVIII (Tháng 6.1979—7.1981)
 
TT Họ và tên Chức vụ
1 Lê Xuân Dũng Bí thư
2 Hoàng Văn Đức PBT – CT
3 Bùi Hữu Hòa Trực Đảng
4 Bùi Đình Nhiệm PCTUB
5 Nguyễn Viết Trọng
6 Nguyễn Minh Tâm MT đến 10.1980
7 Đậu Thị Sương PN
8 Hồ Văn Sinh BT Đoàn
9 Bùi Văn Kế CNHTX
10 Bùi Văn Trương VH
11 Ngô Đức Toản PCN HTX

KHOÁ XIX (Tháng 7.1981- 6.1983)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Hữu Hòa Bí thư
2 Lê Xuân Dũng PBT, Chủ tịch UB
3 Hồ Văn Sinh Trực Đảng
4 Nguyễn Văn Bái PCTUB - C.an
5 Nguyễn Viết Trọng
6 Trần Hữu Bút MT từ 10.1980
7 Hoàng Thị Hiền PN
8 Phạm Văn Hòa BT Đoàn
9 Ngô Đức Mân CNHTX
10 Bùi Văn Trương Nông dân
11 Ngô Đức Toản PCN HTX
12 Võ Văn Long GTTL
13 Hoàng Công Khai BT đoàn
14 Hoàng Văn Đức HTX

KHOÁ XX (Tháng  6.1983- 7.1984)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Kế Bí thư
2 Lê Xuân Dũng Chủ tịch UB
3 Hoàng Văn Đức MT
4 Phạm Quang Hòa BT Đoàn
5 Hồ Văn Sinh PBT - Trực Đảng
6 Võ Xuân Long PCT
7 Ngô Đức Toản GTTL
8 Hoàng Thị Hiển PN
9 Bùi Văn Trương Nông dân (1)
10 Nguyễn Viết Trọng
11 Hồ Văn Thiện CNHTX
12 Ngô Đức Mân CTHND
13 Nguyễn Văn Bái  
14 Hoàng Công Khai BT Đoàn
1. Đ/c Bùi Văn Trương làm CT MT từ 1.1984 đến 4 .1984 theo LL

KHOÁ XXI (Tháng  7.1984 – 9.1985)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Hoàng Văn Đức Bí thư
2 Bùi Văn Trương PBT, CTUB
3 Hồ Văn Sinh PBT- Trực Đảng
4 Võ Xuân Long PCTUB - C.an
5 Hoàng Văn Lượng
6 Lê Xuân Dũng MT
7 Hoàng Thị Hiền PN
8 Bùi Văn Kế CNHTX
9 Hoàng Cảnh Tú VH
10 Hoàng Văn Khai BT Đoàn

KHOÁ XXII (Tháng   9.1985 -1.1988)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Hoàng Văn Đức Bí thư
2 Võ Xuân Long Chủ tịch UB
3 Hồ Văn Sinh MT
4 Phạm Quang Hòa BT Đoàn
5 Hoàng Thị Hiền PBT - Trực Đảng
6 Hoàng Văn Lương PCT
7 Nguyễn Phú Hoa GTTL
8 Nguyễn Đình Khứ PN
9 Bùi Minh Trí Nông dân
10 Bùi Văn Kế
11 Hoàng Công Khai CNHTX
12 Hồ Văn Thiện CTHND
13 Bùi Văn Quế  

KHOÁ XXIII (Tháng  -1.1988 – 11.1991)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Kế Bí thư
2 Võ Xuân Long PBT - CTUB
3 Hoàng Văn Lượng PCT
4 Phạm Quang Hòa PBT - Trực Đảng
5 Hồ Văn Sinh MT
6 Trần Thị Hồng PN
7 Nguyễn Phú Hoa PCN
8 Nguyễn Đình Khứ GT thủy lợi
9 Bùi Minh Trí Kiểm soát
10 Nguyễn Đình Thuấn Đoàn
11 Hoàng Công Khai
12 Hồ Văn Thiện CNHTX
13 Bùi Văn Quế UVUB


KHOÁ XXIV (Tháng  -11.1991 – 1.1994)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Kế Bí thư
2 Võ Xuân Long TV - CTUB
3 Nguyễn Minh Hương Đoàn
4 Phạm Quang Hòa PBT Trực Đảng
5 Nguyễn Trọng Khánh Thủy lợi
6 Phạm Hồng Thái CA
7 Nguyễn Phú Hoa CNHTX
8 Trần Thị Hồng PN
9 Bùi Hồng Chuyên PCTUB
10 Bùi Minh Trí MT
11 Hoàng Văn Thi CS

KHOÁ XXV (Tháng  1.1994 – 1.1996)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Kế Bí thư
2 Võ Xuân Long PBT – CTUB
3 Phạm Quang Hòa TV trực Đảng
4 Nguyễn Minh Hương BT Đoàn
5 Nguyễn Phú Hoa HTX
6 Nguyễn Trọng Khánh PCN kiểm tra
7 Bùi Minh Trí CTMT
8 Hoàng Thị Hiển  
9 Đậu Thị Nguôn  
10 Bùi Hồng Chuyên  
KHOÁ XXVI (Tháng  1.1996 – 10.2000)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Bùi Văn Kế BT - CTUB từ 8.1997 - 11.1999
2 Võ Xuân Long PBT - CTUB  đến tháng 7.1997
3 Nguyễn Minh Hương TV trực Đảng
4 Phạm Quang Hòa MT - 3.1998, đ/c Lưu BS CH - MT
5 Nguyễn Trọng Khánh PCT - đến tháng 7.1997
6 Trần Thị Hồng PN
7 Nguyễn Phú Hoa UVKT
8 Đậu Thị Nguôn Nông dân
9 Nguyễn Hải Hậu PCT - CT từ 12.1999
10 Bùi Hồng Chuyên VH
11 Nguyễn Văn Khai BT Đoàn

KHOÁ XXVII (Tháng  10.2000 – 6.2005)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Phạm Quang Hòa BT - 01.1998 đến 6.2004 - BT
2 Nguyễn Hải Hậu PBT - CTUB đến 01.2006
3 Nguyễn Minh Hương TV trực từ 6.2004 BT
4 Ngô Đức Lưu PCTUB
5 Nguyễn Phú Hoa HTX
6 Trần Thị Hồng PN
7 Nguyễn Văn Khai VH - 6.2004 Trực đảng
8 Hoàng Văn Đông MT
9 Đậu Sĩ Bính BT Đoàn
10 Bùi Văn Kế PCT HĐ

KHOÁ XXVIII (Tháng  6.2005 – 5.2010)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Minh Hương BT(1)  - BT từ 6.2004 đến 8.2005
2 Nguyễn Hải Hậu PBT - CTUB, từ 02.2006 - BT
3 Nguyễn Văn Khai TV Trực Đảng
4 Nguyễn Đình Hoàng PCTUB
5 Phạm Quang Hòa PCTHĐ
6 Hoàng Văn Long PCTUB
7 Hoàng Văn Đông TV-MT
8 Nguyễn Viết Thanh Trưởng công an
9 Bùi Thị Thu PN
10 Bùi Văn Bình BT Đoàn
11 Võ Xuân Hà ND
12 Hoàng Văn Lịch CNHTX
13 Hoàng Văn Phúc PCNUBKT- cơ sở
    1. Tháng 8.2005 Đ/c Hương từ trần, tháng 02.2006 Đ/c Hậu làm BT, Đ/c Hoàng PBT- CTUB.

KHOÁ XIX (Thán  5.2010 - 2015)
TT Họ và tên Chức vụ
1 Nguyễn Hải Hậu Bí thư
2 Nguyễn Đình Hoàng PBT - CTUB
3 Nguyễn Văn Khai PBT - Trực Đảng
4 Hoàng Văn Đông TV - PCT
5 Hoàng Văn Long PCT
6 Hoàng Văn Phúc TV - MT
7 Nguyễn Viết Thanh PCTHĐ
8 Bùi Thị Thu CTPN
9 Bùi Văn Bình BT Đoàn
10 Hoàng Văn Lịch HTX DV
11 Võ Xuân Hà PCT Hội N.dân
12 Lê Thị Hải Hằng HP Tr.Mầm non - từ 6.2012 Đ/c Hùng - Hiệu phó tiểu học thay
13 Nguyễn Thanh Văn Tr. Công an
14 Nguyễn Hải Ân VP Đảng Ủy
15 Vương Văn Thư VP Đảng Ủy

KHOÁ XX X - 2015 -2020
 
TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Nguyễn Đình Hoàng Bí thư  
2 Nguyễn Văn Khai Phó Bí thư TT Từ tháng 6/2016 sang làm PCT-UBND
3 Nguyễn Hải Hậu Phó BT – CT UBND  
4 Hoàng Văn Long UV.BTV-P.CTUBND Từ tháng 6/2016 sang làm PCT-HĐND
5 Hoàng Văn Phúc UV BTV – CT UBMTTQ Từ tháng 4/2019 Nghi hưu
6 Nguyễn Viết Thanh Phó CT HĐND Từ tháng 6/2016 sang làm PBT TT
7 Bùi Văn Bình Bí thư Đoàn TN Từ tháng 4/2019 tham gia BTV, làm Chủ tịch UBMTTQ
8 Bùi Thị Thu CT Hội LHPN Từ 5/2018 nghi hưu nhưng vẫn than gia BCH và làm BTCB 6
9 Võ Xuân Hà CT Hội ND  
10 Nguyễn Thanh Văn Trưởng CA  
11 Nguyễn Văn Ân Phó CNUBKT  
12 Vương Văn Thư CHT QS Từ 2018 thôi không tham gia BCH
13 Phạm Thị Lợi HT trường MN  
14 Chu Quốc Hải BTCB1  
15 Lê Thị Thủy BTCB7  
Từ tháng tháng 6/2018, đc Bùi Thị Thuyến được bổ sung và BCH và giữ chức vụ CT Hội LHPN thay đc Thu nghỉ hưu

KHOÁ XXXI  - 2020 -2025
TT Họ và tên Chức vụ Ghi chú
1 Nguyễn Đình Hoàng Bí thư  
2 Bùi Văn Bình Phó Bí thư TT  
3 Nguyễn Viết Thanh Phó BT – CT UBND  
4 Hoàng Văn Long UV BTV-P.CT HĐND  
5 Nguyễn Văn Khai UV BTV – CT UBMTTQ  
6 Nguyễn Thanh Văn Phó CT UBND  
7 Nguyễn Văn Ân Phó CNUBKT  
8 Võ Xuân Hà CT Hội ND  
9 Bùi Thị Thuyến CT Hội LHPN  
10 Vương Văn Châu Bí thư Đoàn  
11 Vương Văn Thư CHT QS  
12 Phạm Thị Lợi BTCB - HT trường MN  
13 Lên Thị Thủy Bí thư bộ 3  
14 Lê Thị Bình Công chức VHXH Từ 2023 chuyển sang VP Đảng ủy
Từ tháng 9/2020, Bổ sung đồng chí Nguyễn Đình Bưởi – Trưởng Công An xã vào BCH



DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI TIÊU BIỂU XÃ NGHI HƯNG
TT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH CHỨC VỤ/ CẤP BẬC/ HỌC VỊ/ HỌC HÀM GHI CHÚ
1 Thần Sơn – Ngô Quảng 1858 Sỹ phu yêu nước  
2 Bùi Khắc Thựu 1917 Ban Chấp hành Tỉnh ủy Nghệ An  
3 Bùi Khắc Quỳnh 1921 BT Huyện uỷ N.Lộc,đại tá QĐND  
4 Bùi Khang Đức 1922 Thầy thuốc nhân dân, Thứ trưởng Bộ Y tế  
5 Bùi Văn Nguyên 1923 Giáo sư, nhà văn, nhà giáo ưu tú  
  Trần Hữu Bút 1924 Ủy viên BTV Huyện ủy, PCT UBND huyện  
6 Dương Văn Hàng 1926 Trưởng ban cơ yếu Bộ nội vụ  
7 Bùi Khắc Toản 1928 Đại tá QĐND  
8 Nguyễn Xuân Lương 1930 Trưởng phòng hành chính quản trị tỉnh Nghệ Tĩnh  
9 Hoàng Văn Nhường 1947 Ủy viên BTV Huyện ủy, Trưởng ban tổ chức Huyện ủy  
10 Bùi Thanh Cương 1951 Đại tá QĐND  
11 Nguyễn Thị Hiền 1955 Ủy viên BTV Huyện ủy, Phó CT HĐND huyện  
12 Bùi Dương Lâm 1959 Tiến sỹ  
13 Vương Văn Hùng 1959 Đại tá CAND, PGS-Tiến sỹ  
14 Trần Hữu Lam 1962 Ủy viên BTV Huyện ủy - PCT HĐND huyện  
15 Bùi Kim Dung 1964 Đại tá QĐND  
16 Nguyễn Phú Hoa 1964 PGS,TS – Phó vụ trưởng Vụ Công nghiệp Ban kinh tế TW  
17 Hoàng Văn Trà 1964 Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TW  
18 Đậu Xuân Hùng 1964 Đại tá QĐND  
19 Hoàng Văn Lâu 1967 Thiếu tướng QĐND, Chủ nhiệm chính trị Quân chủng PK-KQ Việt Nam  
20 Hoàng Văn Thiết 1970 Đại tá QĐND  
21 Bùi Tiến Cường 1970 Tiến sỹ  
22 Bùi Văn Hùng 1973 Tiến sỹ, Phó Viện trưởng Viên nông nghiệp Bắc Trung bộ  
23 Bùi Quang Huy 1977 Ủy viên DK BCH TW Đảng, Bí thư thứ nhất TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh  
24 Nguyễn Phú Danh 1968 Đại tá QĐND  
25 Hoàng Lê An 1994 Tiến sỹ  

   DOANH NHÂN
 
TT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ TÊN CÔNG TY ĐỊ CHÍ
1  Đậu Văn Duyên CTHĐ QT- Giám đốc Công ty cổ phần khai thác khoảng sản Đồng Phú Tỉnh Lạng Sơn
2 Hồ Trung Thành CTHĐ QT- Giám đốc Công ty TNHH Phát Thành Đạt Tỉnh Bình Dương

DANH SÁCH LIỆT SỸ XÃ NGHI HƯNG
TT Họ  tên liệt sỹ Năm
sinh
Nhập ngũ Hy sinh Cấp bậc/chức vụ
1 Ngô Quảng 1860   1929 Sỹ phu yêu nước
2 Bùi Khắc Thựu 1914   1941 Sỹ phu yêu nước
3 Nguyễn Đình Á 1946 1964 1975 H1
4 Nguyễn Đình Ái 1932 1949 1951 H1
5 Nguyễn Đình Bí 1933 1949 1953 H3
6 Bùi Khắc Bình 1951 1970 1971 B1
7 Vương Văn Chấn 1949 1968 1972 H1
8 Bùi Văn Chấp 1940 1965 1966 B1
9 Nguyễn Đình Chầy 1924 1953 1953 H1
10 Nguyễn Phú Chính 1946 1964 1977 H2
11 Phạm Văn Chính 1932 1965 1968 H1
12 Võ Bá Chương 1946 1962 1971 U4
13 Bùi Văn Cọi 1948 1967 1971 CB
14 Bùi Văn Cọi 1948 1968 1971 H2
15 Võ Văn Công 1960 1977 1978 B1
16 Hồ Văn Cởu 1936 1958 1970 U1
17 Bùi Trọng Cửu 1959 1978 1979 H2
18 Cao Văn Đạm 1957 1978 1978 H1
19 Đậu Sỹ Đàn 1960 1977 1978 B1
20 Hồ Văn Đảng 1952 1971 1972 H1
21 Nguyễn Văn Đạo 1949 1972 1972 B1
22 Hồ Văn Đẩu 1931 1949 1954 H1
23 Hồ Trung Đông 1950 1968 1970 H3
24 Phạm Văn Đồng 1948 1968 1969 H1
25 Phạm Văn Dư 1949 1970 1971 H2
26 Nguyễn Văn Đức 1958 1976 1983 U1
27 Bùi Văn Dương 1956 1977 1978 B1
28 Chu Văn Dương 1951 1970 1972 H2
29 Bùi Thanh Dương 1945 1964 1972 H1
30 Hồ Trung Đương 1950 1968 1971 H2
31 Chu Văn Đường 1950 1967 1972 H2
32 Đậu Sỹ Hoạt 1946 1968 1969 H3
33 Bùi Văn Hợp 1947 1967 1969 H1
34 Phạm Văn Hưng 1962 1981 1983 B1
35 Nguyễn Đình Huy 1954 1974 1975 B1
36 Nguyễn Văn Khả 1930 1948 1952 H2
37 Nguyễn Phú Khai 1952 1971 1972 H2
38 Ngô Đức Kháng 1950 1967 1975 U1
39 Đậu Sỹ Khanh 1944 1967 1968 H1
40 Nguyễn Phú Khoa 1936 1966 1968 B1
41 Trần Hữu Kịch 1921 1949 1952 B1
42 Nguyễn Quốc Kỳ 1952 1970 1972 H1
43 Hồ Văn Lại 1921 1949 1951 H1
44 Bùi Văn Lâm 1964 1983 1985 H2
45 Lê Văn Lân 1942 1968 1971 H2
46 Đậu Sỹ Lệ 1958 1977 1979 H1
47 Nguyễn Văn Liêm 1958 1976 1979 H3
48 Hoàng Văn Liêm 1967 1988 1989 B1
49 Bùi Xuân Liên 1946 1965 1968 H2
50 Đậu Sỹ Liệu 1949 1968 1970 H2
51 Phạm Văn Lơn 1940 1961 1972 U2
52 Nguyễn Văn Long 1959 1977 1978 B1
53 Bùi Văn Long 1932 1965 1966 U1
54 Bùi Khắc Luân 1944 1966 1966 H1
55 Bùi Khắc Lương 1941 1963 1971 H2
56 Hoàng Văn Lương 1920 1948 1952 H1
57 Nguyễn Văn Lương 1959 1977 1979 B1
58 Hồ Văn Luyện 1948 1966 1970 H3
59 Trần Hữu Lý 1948 1965 1968 H1
60 Ngô Đức Miêng 1947 1965 1967 H2
61 Bùi Đình Minh 1958 1978 1979 B1
62 Bùi Văn Nài 1949 1972 1973 H3
63 Hoàng Văn Nam 1961 1979 1981 H2
64 Trần Văn Nam 1937 1962 1965 B2
65 Bùi Văn Năm 1959 1977 1978 B1
66 Lê Phạm Nga 1949 1971 1972 H1
67 Nguyễn Văn Nga 1960 1978 1989 H2
68 Vương Văn Nghi 1938 1963 1965 CN
69 Bùi Văn Nghì 1926 1950 1952 H1
70 Nguyễn Đình Nghị 1957 1978 1978 B1
71 Nguyễn Đình Nguyên 1949 1968 1972 B1
72 Bùi Thị Nguyệt 1959   1984  
73 Đậu Sỹ Nhàn 1947 1966 1967 B1
74 Nguyễn Văn Ninh 1946 1965 1966 H1
75 Nguyễn Đình Nội 1942 1965 1966 H1
76 Lê Hồng Phong 1964 1984 1987 U2
77 Nguyễn Văn Phúc 1965 1984 1985 B1
78 Bùi Văn Phương 1930 1954 1971 U4
79 Nguyễn Văn Phương 1950 1968 1970 H1
80 Hồ Văn Quang 1944 1964 1965 B2
81 Nguyễn Viết Quang 1950 1968 1972 H3
82 Bùi Văn Quang 1944 1964 1968 H1
83 Đậu Sỹ Quang 1964 1985 1985 B1
84 Nguyễn Viết Quâng 1937 1958 1968 H3
85 Ngô Đức Sáu 1945 1964 1975 H2
86 Hồ Xuân Sinh 1934 1958 1971 U4
87 Phạm Văn Sinh 1950 1972 1972 B1
88 Trần Hữu Sơn 1947 1967 1969 H2
89 Đậu Sỹ Sót 1920 1951 1952 H1
90 Bùi Công Suất 1946 1964 1971 H3
91 Nguyễn Văn Sỹ 1932 1951 1951 H2
92 Nguyễn Văn Tám       LiÖt sü chèng ph¸p
93 Nguyễn Duy Tần 1932 1942 1954 H1
94 Vương Văn Tần 1924 1952 1963 H1
95 Nguyễn Đình Tạo 1930 1950 1952 H1
96 Nguyễn Đình Thân 1945 1961 1968 H3
97 Ngô Đức Thành 1951 1969 1970 B1
98 Bùi Đình Thiên 1957 1976 1980 H1
99 Võ Bá Thiên 1949   1969 H1
100 Hoàng Đình Thông 1968 1978 1978 B1
101 Nguyễn Đình Thu 1946 1964 1969 H2
102 Hoàng Văn Thứ 1939 1967 1969 H3
103 Đậu Sỹ Thược 1949 1969 1972 B2
104 Trần Hữu Thụy 1947 1967 1968 H2
105 Hoàng Văn Tiển 1930 1949 1951 H1
106 Hồ Trung Tinh 1949 1969 1971 H3
107 Vương Văn Toàn 1950 1967 1968 H1
108 Nguyễn Văn Toàn 1956 1974 1975 B1
109 Phạm Văn Tớm        
110 Đậu Sỹ Trầm 1960 1978 1978 B2
111 Đậu Sỹ Trí 1946 1963 1968 H2
112 Trần Hữu Trì 1948 1968 1971 B1
113 Cao Văn Trúc 1928 1949 1949 H1
114 Ngô Đức Trượng 1943 1963 1967 H2
115 Nguyễn Viết Truyền 1924 1947 1950 H1
116 Hồ Trung Tú 1944 1965 1969 H1
117 Ngô Đức Tư 1940 1964 1966 B1
118 Nguyễn Minh Tuấn 1948 1970 1973 U1
119 Nguyễn Văn Tùng 1930 1952 1954 B1
120 Bùi Văn Tuyến 1949 1968 1969 H1
121 Nguyễn Văn Ưng 1928 1952 1978 H4
122 Hoàng Văn ứng 1945 1967 1970 H3
123 Đậu Sỹ Vinh 1960 1978 1979 H2
124 Nguyễn Văn Vỹ 1943 1963 1969 H3
125 Lê Phạm Xư 1932 1953 1954 H1
126 Nguyễn Bá Xuân 1935 1951 1954 H1
127 Nguyễn Văn Xuân 1935 1953 1954 H1

DANH SÁCH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG
 
TT HỌ VÀ TÊN NĂM SINH NĂM MẤT
1 Đậu Thị Mỹ          1897 1981
2 Nguyễn Thị Thưu    1905 1987
3 Vương Thị Đối 1907 1980
4 Nguyễn Thị Kính          1909 1991
5  Lê Thị Nhỏ 1909 1945
6  Chu Thị Khăng 1916 1998
7 Nguyễn Thị Nghiêm 1919 1992
8  Trần Thị Lâng 1918 1965
9  Nguyễn Thị Nhụy 1920 2011

   

Phụ lục
NHỮNG ĐÓNG GÓP- THÀNH TÍCH TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN
  • Số người tham gia quân đội:  635 người
  • Số TNXP, dân công hỏa tuyến: 388 người
  • Số liệt sỹ: 127 người
  • Số thương, bệnh binh: 46 người
  • Huân chương kháng chiến  hạng Nhất:    77 người
  • Huân chương kháng chiến  hạng Nhì:      52 người
  • Huân chương kháng chiến  hạng Ba:       111 người
  • Huy chương kháng chiến  hạng Nhất:      33 người
  • Huy chương kháng chiến hạng  Nhì :       22 người
  1. Khen nhân dân
  • Huy chương kháng chiến hạng Nhì:  102 người
  • Bằng khen Hội đồng Bộ  trưởng :  309 người


TRANG DANH NHÂN
 
    1. TRẦN  BÁ CHÚC
Người khai canh ra thôn Yên Lãng. Ông là người bản thôn, tên Lạng. Năm Hồng Đức (1470 - 1497) triều Lê, phò vua Lê Thánh Tông, có nhiều công lao, làm quan lớn đến chức Thượng thư, được phong tước Quận công, thường gọi là Lạng quận công. Cùng đời Hồng Đức, nhà vua có chiếu chỉ cho các công thần, danh thần được khai hoang lập đồn điền.Về trí sĩ, ông đã chiêu dân lập ấp lập nên trang trại Yên Lãng, xã Quả Khê (Nghi Hưng) huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Khi mất được dân lập đền  thờ.
Theo Bách thần lục

 
    1. THẦN SƠN - NGÔ QUẢNG
Ngô Quảng tên húy là Đức Chính, ở làng Tam Đa. Ông sinh 1858, lúc nhỏ, theo học chữ Hán với ông đồ trong làng một thời gian. Do nhà nghèo nên phải đi cày thuê, đốt than, hái củi để kiếm sống. Ông kết hôn với bà Hoàng Thị Vân, người cùng làng, sinh con gái là Ngô Thị  Quảng.
Trong phong trào Đông Du, huyện Nghi Lộc có 25 người xuất dương và địa bàn hoạt động của nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước. Trong phong trào Cần Vương, có Hoàng giáp Nguyễn Hữu Chính (Phúc Thọ), Phó bảng Cao Huy Tuân (Phan Thôn), Tiến sĩ Đinh Văn Chất (Nghi Long), làm Tán tướng quân vụ ở Nam Định và Chánh sứ sơn phòng ở Thanh Hóa, tham gia hoạt động trong đội quân Phan Đình Phùng còn có Đông Khê - Nguyễn Thức Tự, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân... Ngô Quảng từ lúc còn trẻ đã có chí lớn, biết làm nghề thợ mộc nên thường đi lại nhiều vùng, là người thông minh, biết lắng nghe nên hiểu nhiều về hoạt động của phong trào Cần Vương. Những hoạt động của các chí sĩ đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Ngô  Quảng.
Khi Tiến sĩ Đinh Văn Chất, quê ở xã Nghi Long giữ chức Tán tướng quân vụ Nam Định, Chánh sứ Sơn Phòng Thanh Hóa, sau khi thất trận, rút về Nghệ An, Ngô Quảng theo Đinh Văn Chất, rồi chuyển sang hoạt động trong đội quân của Phan Đình Phùng.
Ngô Quảng được Phan Đình Phùng giao giữ chức vụ là một bộ tướng ở vùng phía bắc sông Lam. Trong trận chợ Vạc (Nam Đàn), Ngô Quảng giết được một sĩ quan của Pháp nên ông được Phan Đình Phùng phong chức Đề Đốc. Từ đấy, tiếng vang của ông lan ra khắp vùng. Thực dân Pháp cho lính về khám xét nhà ông, tịch thu toàn bộ tài sản, bắt anh ruột ông là Ngô Đức Hiệp và vợ ông là Hoàng Thị Vân vào ngục giam, rồi bị giết trong ngục. Đứa con trai nhỏ của ông thiếu sự chăm sóc nên bị bệnh  chết.
Sự mất mát đau thương của người thân không làm ông nản chí, vẫn một lòng đi theo nghĩa quân chống  Pháp.
Trong thời gian giúp Đinh Văn Chất, ông thường đi lại và quen biết vùng Nghi Xuân, Hà Tĩnh nên được Phan Đình Phùng giao cho chỉ huy đội quân thứ ở Nghi Xuân cùng với Hà Văn Mỹ. Ông chỉ huy nhiều trận đánh du kích chống Pháp từ Nghi Xuân đến Linh Cảm; về sau, lại được Phan Đình Phùng phái vào hoạt động ở Quảng Trị. Ngô Quảng tham dự cuộc họp Phan Đình Phùng triệu tập, bàn kế đối phó âm mưu của giặc Pháp: một mặt bắt cóc mẹ quân sư Cao Thắng, mặt khác sai Hoàng Cao Khải viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng để làm áp lực đối với nghĩa quân. Trong mọi tình huống, Ngô Quảng đều tỏ ra kiên cường và chủ trương chiến đấu tới cùng. Phan Đình Phùng bị một số người kém tinh thần làm hại và cuối cùng nghĩa quân bị đàn áp và tan rã dần. Ngô Quảng lúc đầu hết sức thất vọng đi lang thang về sau lại bí mật tìm một hướng hoạt động cách mạng khác.
Trong khoảng thời gian đó, một số nhà nho yêu nước ở Trung Kì lập hội Duy Tân, ở Nghệ Tĩnh có Hội Triều Dương, cũng từ hội Duy Tân chuyển sang. Trong những người sáng lập ra Hội Triều Dương, ở Nghi Lộc có Đông Khê - Nguyễn Thức Tự, Nguyễn Đồng, một vị linh mục yêu nước ở Nhân Hòa, xã Nghi Thuận... Ở Nghi Lộc, nhiều người yêu nước đã tham gia như: Đặng Thái Thân, Nguyễn Thức Đường, Đặng Tử Kính, Long Sơn - Nguyễn Đình Hồ, Đội Phấn v.v...
Chủ trương của Triều Dương một mặt cử người hoạt động ở trong nước, mặt khác bố trí người xuất dương sang Nhật Bản, sau lại về Trung Quốc. Nhiều thanh niên được cơ sở Hội Triều Dương cử đi nước ngoài. Ở Nghi Lộc lúc đó, có các ông Nguyễn Thức Đường (tức Trần Hữu Lực), Nguyễn Đức Công (tức Hoàng Trọng  Mậu)...
Lúc đầu, Ngô Quảng cùng các ông Long Sơn, Đội Quyên, Đội Phấn... hoạt động ở trong nước. Về sau, Ngư Hải - Đặng Thái Thân, phụ trách Hội Triều Dương ở Nghi Lộc, cử ông sang Trung Quốc phục vụ trong bộ phận của Phan Bội Châu. Ở Trung Quốc, Ngô Quảng được học thêm một số kiến thức. Năm 1908, Phan Bội Châu lại phái ông trở về nước hoạt động. Ông cùng với Đội Quyên (quê ở Hà Tĩnh) và Đội Phấn (quê ở Nghi Lộc), đem quân chiếm đóng một số nơi ở Nghi Lộc, tiến ra chiếm đóng Tam Lệ (Quỳnh Lưu). Đặc biệt, lần đánh chiếm Bồ Lư ở Thanh Chương giành thắng lợi.
Năm 1910, cuộc họp lớn ở Phan Thôn, Nghi Kim để bàn kế hoạch bị bại lộ, thực dân Pháp đưa lính về vây ráp, Đặng Thái Thân, Long Sơn và một số người bị bắt và hi sinh. Ngô Quảng trốn thoát, rồi trở về căn cứ Bồ  Lư.
Hội Triều Dương gặp lúc thoái trào, mất liên lạc với những người xuất dương, Ngô Quảng và các đồng chí của ông chủ trương hoạt động độc lập, phân tán, chờ thời cơ. Ông bị thực dân Pháp truy lùng nhiều nơi, ở núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh, Nam Đàn, làng Thanh Hương gần quê nhà và ông đều thoát được sự vây bắt.
Nhận thấy hoạt động trong nước khó khăn, ông hoạt động ở phái bộ Việt Nam Quang phục hội tại Xiêm (Thái Lan), phụ trách công việc về nước đưa người xuất dương như: Trần Văn Giào ở Thanh Thủy (Nam Đàn), Trương Văn Lĩnh (Tức Thanh) ở Tụy Anh (Nghi Phương) v.v....
Hoạt động ở Xiêm một thời gian, ông bị bệnh và mất khoảng (1927 - 1928). Các chiến sĩ cách mạng trong và ngoài nước vô cùng thương tiếc, làm văn điếu tặng ông bốn chữ: "Cựu thần trung nghĩa" (kẻ bề tôi trung thành và có nghĩa).
Thần Sơn - Ngô Quảng quả là một tấm gương sáng tận tụy hi sinh cho cách mạng. Ông trải qua phong trào tranh đấu chống thực dân Pháp từ Cần Vương theo Đinh Văn Chất, rồi Phan Đình Phùng, qua phong trào Triều Dương, đến phong trào xuất dương. Vượt qua những mất mát của gia đình, anh ruột và vợ chết trong ngục, con trai chết bệnh. Thần Sơn Ngô Quảng không sợ hiểm nguy, kiên cường bền bỉ, hoạt động không sờn lòng hiến thân cho cách mạng đến hơi thở cuối cùng.

 
    1. BùI VĂN  NGUYÊN
Bùi Văn Nguyên sinh ngày 14.3.1923, mất năm 2003, là nhà văn, giáo sư, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, bút danh Vân Trình, Khuê Hoa Nữ tử... Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, thuở nhỏ học chữ Hán với người thân trong gia đình. Đến tuổi trưởng thành học tiểu học tại Vinh, trường Thăng Long, Hà Nội, rồi làm công chức ngành bưu điện ở Biên Hòa (Nam  Bộ).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông làm giáo viên trung học suốt chín năm kháng chiến tại Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1956, ông ra Hà Nội giảng dạy Ngữ văn tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho đến lúc hưu trí 1990. Ông làm chủ nhiệm bộ môn văn học Dân gian và văn học cổ Việt Nam trong nhiều năm, Tổng thư kí Hội Văn nghệ Dân gian...
Các công trình nghiên cứu khoa học chủ yếu và số kết quả đào tạo của ông: Văn học dân gian (truyền miệng) và văn học viết - trung đại Việt Nam. Nghiên cứu sâu về các danh nhân như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... Ông đã từng giảng dạy nhiều lớp, nhiều khóa học sinh, sinh viên Việt Nam. Công bố hàng trăm bài báo khoa học trên các tạp chí. Các bút danh đã dùng khi viết báo và sách: Phi Hoa Nữ Tử; Hùng Nam Yến; Vân Trình v.v...
Chủ biên, tác giả, đồng tác giả 25 đầu sách đã xuất bản, 17 quyển được viết và in ấn sau khi nghỉ hưu trong đó có: Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng, 1986; Bạch Vân Quốc ngữ thi tập, Nxb Giáo dục, 1989; Việt Nam thần thoại và truyền thuyết, Nxb KHXH, 1993; Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại (soạn  chung)...
Ông được Nhà nước Việt Nam phong chức danh Giáo sư Văn học năm 1984, Nhà giáo ưu tú. Ông mất ngày 2. 4.2003, hưởng thọ 80 tuổi. 
    1. BùI KHẮC THỰU (1914 - 1941)
Bùi Khắc Thựu sinh năm 1914 tại làng Tam Đa, thân phụ là Bùi Hữu Mân (1872 - 1938) và thân mẫu là Trần Thị Hảo đều xuất thân trong gia đình có truyền thống yêu nước. Gia đình nội, ngoại đều tham gia hoạt động trong các phong trào Cần Vương và Đông Du. Gia đình ông Bùi Khắc Thựu là cơ sở hội họp và cung cấp tài chính cho ông Thần Sơn - Ngô Quảng hoạt động và là nơi liên lạc của những người xuất dương.  Năm 1925, mật thám Pháp phát hiện gia đình ông Mân  từ lâu đã ủng hộ phong trào Đông Du. Bọn lính Pháp và công giáo phản động địa phương kéo đến cướp của, đốt nhà. Ông Mân đành nhờ ông bà Tú kép chăm sóc, dạy dỗ Bùi Khắc Thựu để ông sang Xiêm hoạt động. Được Đặng Thúc Hứa giao nhiệm vụ, ông Mân trở về nước hoạt động. Ông Mân đi ra Bắc, vào Nam tìm bạn bè cùng chí hướng. Bùi Khắc Thựu lên 7 tuổi, ông Mân gửi nhờ cụ Tú Kép ở làng Kỳ Trân (Nghi Trường) dạy học. Bùi Khắc Thựu là học trò thông minh, chăm chỉ, giỏi làm thơ và hay giúp đỡ mọi người. Sau những buổi học ở trường, Bùi Khắc Thựu được các chị Nguyễn Thị Xân, Nguyễn Thị Thiu dạy cho làm bài, dạy công việc và còn kể chuyện về Cách mạng tháng Mười Nga. Khi Nguyễn Thị Nhã, Nguyễn Thị Phúc dẫn chị Minh Khai xuống nhà chơi. Bùi Khắc Thựu làm nhiệm vụ cảnh báo khi có người lạ đến. Nhà cụ Tú Kép là nơi các chiến sĩ yêu nước thường lui tới trao đổi công việc. Được gần gũi những người tham gia hoạt động cách mạng nên Bùi Khắc Thựu đã sớm giác ngộ cách mạng, tích cực tham gia vào việc bảo vệ, canh gác, rải truyền  đơn...
Tháng 4.1930, tại nhà thờ cụ Sơn (Nguyễn Thức Tự) Nghi Trường, Huyện ủy Nghi Lộc được thành lập. Ngày 1.5.1930, Tỉnh ủy chủ trương phát động phong trào đấu tranh nhân ngày Quốc tế Lao động. Bùi Khắc Thựu đã theo chị Xân, chị Thiu, anh Nguyễn Thức Mẫn… tham gia biểu tình, được cử vào tự vệ luyện tập, tuần tra canh gác, treo cờ. Bùi Khắc Thựu được tổ chức tin tưởng giao cho phụ trách công tác thanh niên, vận động được nhân dân tham gia các lớp học chữ Quốc ngữ, tập văn nghệ, sáng tác thơ ca, hò vè…
Tháng 10 năm 1930, cơ quan Huyện ủy Nghi Lộc đóng  ở làng Vạn Lộc (Nghi Tân) bị địch bao vây đánh phá, nhiều đồng chí bị bắt, Huyện ủy dời địa điểm làm việc lên làng Ông La (Nghi Long). Bùi Khắc Thựu được Huyện ủy Nghi Lộc cử vào bộ phận ấn loát. Xứ ủy Trung Kì và Tỉnh ủy Nghệ An chủ trương kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Mười Nga lần thứ 13 (7.11.1917 - 7.11.1930). Bùi Khắc Thựu cùng các cán bộ ấn loát in truyền đơn, báo chí phục vụ công tác tuyên truyền và đi rải truyền đơn, treo cờ Đảng cùng với anh em tự vệ.
Sau “vụ Song Lộc” nhân dân giết Tri huyện Tôn Thất Hoàn, thực dân Pháp tăng cường khủng bố phong trào cách mạng. Chúng bắt nhân dân đến dự lễ treo cờ vàng và phát thẻ quy thuận. Huyện ủy Nghi Lộc đã chủ trương vận động nhân dân đấu tranh chống lại lễ treo cờ, quy thuận. Bùi Khắc Thựu cùng đội tự vệ đi rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm của Đảng lên các cây cao, đình làng, hạ những cờ Tam Tài của thực dân Pháp xuống.
Tháng 4.1931, Bùi Khắc Thựu được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Tháng 11.1931,đồng chí Bùi Khắc Thựu bị địch bắt giam ở nhà lao Vinh. Trong nhà, Bùi Khắc Thựu đã tham gia các hoạt động như: làm báo miệng, làm thơ, dạy học... và đã sáng tác nhiều bài thơ để động viên tù chính trị giữ vững tinh thần, kiên trì đấu tranh chống lại chế độ hà khắc nhà tù, đòi quyền lợi cho tù nhân, kêu gọi mọi người đoàn kết.
Năm 1932, nhân dịp Bảo Đại “hồi loan”, một số tù chính trị trong các nhà lao được ân xá. Bùi Khắc Thựu được ra tù nhưng chúng bố trí cho mật thám theo  dõi.
Bùi Khắc Thựu về quê, lại tiếp tục hoạt động, mở lớp tại nhà dạy chữ Quốc ngữ và tuyên truyền tinh thần yêu nước và tìm bắt liên lạc hoạt động. Học trò các làng Yên Lãng, Tam Đa, Nhất Tộc, Thạch Khê và các làng khác đến học rất đông. Sau tết Nguyên Đán năm Giáp Tuất (1934), Tỉnh ủy Nghệ An bố trí Bùi Khắc Thựu vào làm việc tại Hiệu ảnh Văn Lan (Vinh) với nhiệm vụ là liên lạc. Theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Ngô Tuân - Ủy viên Ban Chấp hành Đông Dương viện trợ bộ phụ trách công tác Việt Nam, được cử về Nghệ An hoạt động với nhiệm vụ khôi phục Tỉnh ủy Lâm thời Nghệ An. Bùi Khắc Thựu được tổ chức cử đi đón đồng chí Ngô Tuân và chọn địa điểm hoạt động sắp tới cho Tỉnh ủy Lâm thời.
Năm 1935, Tỉnh ủy Nghệ An điều đồng chí Bùi Khắc Thựu về huyện Nghi Lộc hoạt động cùng đồng chí Trần Văn Quang, Bùi Khắc Quỳnh.
Tháng 7.1936, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Bùi Khắc Thựu và Trần Văn Quang đều tham gia trong tổ chức Thanh niên dân chủ. Sau đó, Bùi Khắc Thựu lại được Tỉnh ủy điều trở lại Vinh, phụ trách Hiệu ảnh Văn Lan là cơ quan kinh tài của Tỉnh ủy Nghệ An và “Hồng Lam thư quán” là nơi liên lạc và hội họp bí mật của Tỉnh ủy. Cùng hoạt động với Bùi Khắc Thựu có đồng chí Siêu Hải, Nguyễn Thị Nhuận và Hồ Mỹ  Xuyên.
Ngày 23.2.1937, biết Gô-đa vào Nghệ An điều tra    thực trạng của nước thuộc địa, Tỉnh ủy chủ trương vận động nhân dân Nghệ An và thành phố Vinh tổ chức cuộc đón tiếp Gô- đa. Bùi Khắc Thựu cùng các đồng chí trong Mặt trận dân chủ hoạt động tích cực, tuyên truyền, vận động nhân dân các huyện đi đón Gô-đa.
Cuối năm 1938, Bùi Khắc Thựu được bổ sung vào Ban Chấp hành Tỉnh ủy Nghệ An phụ trách vận động nhân dân đấu tranh đòi phòng thủ Đông Dương. Ngoài ra anh còn giúp đồng chí Siêu Hải trong việc biên soạn cuốn sách “Họa chiến tranh với vấn đề phòng thủ Đông  Dương”.
Tháng 6.1941, đồng chí Bùi Khắc Thựu bị địch bắt giam. Trong nhà tù bị tra tấn, đánh đập dã man nhưng Bùi Khắc Thựu vẫn trung kiên, tin tưởng vào Đảng, không khuất phục trước mọi đòn tra khảo của địch. Do những vết thương quá nặng, Bùi Khắc Thựu đã hi sinh tại nhà lao Vinh vào ngày 13.11.1941.
Đồng chí Bùi Khắc Thựu là tấm gương kiên cường, bất khuất luôn giữ vững khí tiết của người Cộng  sản.
5. NGÔ KHÔN DUY (1893 - 1980)
Ngô Khôn Duy sinh năm 1893, quê làng Hưng Yên, tổng Vân Trình, nay là xã Nghi Hưng, Nghi Lộc, là con gái  của Thần Sơn - Ngô Quảng, một Đề đốc giỏi trong phong trào Cần Vương của cụ Phan Đình Phùng (1885 -  1897).
Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, ông Ngô Quảng tiếp tục tham gia phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu khởi xướng và trở thành cánh tay đắc lực của cụ Phan trong việc tuyên truyền, vận động, thiết lập đường dây liên lạc, đưa lớp thanh niên trong nước xuất dương ra nước ngoài hoạt động. Trong số những người xuất dương lớp đầu tiên vào những năm đầu thế kỉ XX, có bà Ngô Khôn  Duy.
Trên đất Xiêm, Ngô Khôn Duy và bà Đặng Quỳnh Anh được ông Đặng Thúc Hứa giao cho những công việc trong trại cây. Thấy Ngô Khôn Duy sáng dạ, thông minh và chăm học, ông Đặng Thúc Hứa đã tìm cách đưa Ngô Khôn Duy sang Trung Quốc để tiếp tục học tập. Ngô Khôn Duy theo học tại trường Cao đẳng học nữ tử Quảng Đông. Sau 6 năm dùi mài kinh sử, bà đã tốt nghiệp vào loại xuất  sắc.
Để tạo điều kiện hợp pháp cho ông Hồ Học Lãm cũng như những người Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc có điều kiện hoạt động, cụ Phan Bội Châu đã tác thành cho Hồ Học Lãm và Ngô Khôn Duy nên vợ chồng. Hai vợ chồng sinh được hai người con gái là Hồ Diệc Lan và Hồ Mộ  La. Gia đình bà Ngô Khôn Duy là nơi đi lại, ăn nghỉ của những người yêu nước Việt Nam tại Trung Quốc từ những ngày đầu xây dựng cơ sở cách mạng ở hải ngoại. Đến cuối năm 1924, thời kì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Trung Quốc hoạt động, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Trương Văn Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Phạm Văn Đồng... đều được bà Ngô Khôn Duy hết lòng giúp đỡ. Bà đã dành dụm, chắt chiu từng đồng lương của chồng để giúp đỡ in báo chí. Khi cách mạng gặp khó khăn, nhiều đồng chí bị quân của Tưởng Giới Thạch bắt, bà Ngô Khôn Duy đã không hề sợ hãi, chạy vạy kiếm tiền lót tay các cửa của quân đội Tưởng để giải cứu họ ra khỏi nhà  tù.
Là một người yêu nước tha thiết, bà Ngô Khôn Duy luôn hướng hai con gái nối nghiệp con đường yêu nước và cách mạng của cha mẹ. Trên con đường cứu nước, Hồ Diệc Lan và Lê Thiết Hùng đã được anh em đồng chí xe duyên, họ nên vợ chồng.
Vào mùa thu 1942 - 1943, Bác Hồ bị quân Tưởng Giới Thạch vây bắt ở Tĩnh Túc trong chuyến Người đi công cán sang Trung Quốc. Khi nhận được mật thư của Trung   ương Đảng ta từ trong nước gửi sang báo tin, bà Ngô Khôn Duy đã cùng con gái Hồ Diệc Lan đi khắp nơi tìm tung tích. Khi biết Bác bị quân Tưởng giam trong nhà tù, bà Ngô Khôn Duy đã tìm mọi cách chạy các cửa, viết kiến nghị, vận động đồng bào đấu tranh, ... để đòi Tưởng Giới Thạch phải trả lại tự do cho lãnh tụ Hồ Chí  Minh…
Tháng 6 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã cho người sang Trùng Khánh (Trung Quốc) để đón 3 mẹ con bà Ngô Khôn Duy về nước. Mặc dù tuổi đã cao nhưng bà Ngô Khôn Duy vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng tại quê chồng ở Quỳnh Lưu trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, Bác Hồ và Chính phủ về tiếp quản thủ đô, bà Ngô Duy Khôn được mời ra sống ở Hà Nội và làm việc tại Tòa soạn báo Nhân Dân.
Bà Ngô Khôn Duy từ trần năm 1980, bà là một tấm gương cao đẹp của người phụ nữ Việt  Nam.

 
    


 
 Tags: lịch sử

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây